Sau khi các máy bay chiến đấu của Israel tàn phá các khu vực dân sự ở Dải Gaza vào ngày 6 (giờ địa phương), Palestine cũng bắn rocket vào miền nam Israel, The Guardian đưa tin. Khi trận chiến tiếp tục căng thẳng, lo ngại ngày càng gia tăng rằng nó sẽ dẫn đến một cuộc chiến quy mô lớn khác ở Trung Đông sau cuộc Kể lại một trận tranh tài kéo teo - mẫu 6 Hôm công ty nhật vừa qua, trường em tổ chức cho các lớp tranh tài kéo co, giật cờ, nhảy đầm dây, mong lông. Trong những môn tranh tài đó, em say mê nhất là trò nghịch kéo co. Hôm ấy, lớp em thi kéo co với lớp 3/2. Đầu tiên, thầy phụ trách Đội lên nói tới thể lệ cuộc thi: mỗi đội gồm mười bạn. Khi trận chiến bắt đầu, chủ sở hữu triệu hồi một luồng gió mạnh ở phía đối diện của sân đấu, loại kẻ địch gần đó nhất ra khỏi chiến đấu trong 8 giây. Một khi kẻ địch quay trở lại trận chiến, họ nhận 30 Sức Mạnh Công Kích và 30 Sức Mạnh Phép Thuật trong Trên chiến trường, Huyết Cơ, Bạo Long và Độ Quảng Phật không hề rút lui, mà tạo thành một thế hình tam giác bao vây Dương Ân vào giữa, chuẩn bị tiến hành một trận chiến ác liệt cuối cùng. "Tất cả rác rưởi đều đã được thu dọn sạch sẽ, cuối cùng cũng có thể thả lỏng tay chân để đấu một trận rồi!", Huyết Cơ nhẹ nhàng gảy kim thêu trong tay mình nói. Thống kê chính thức từ Israel cho biết, 88 máy bay Syria đã bị bắn rơi trong các ngày 5-12 tháng 6 năm 1982. Các máy bay F-15 của Không quân Israel (IAF) được ghi nhận đã lập 33 chiến công. F-16 của IAF lập 44 chiến công khác và một chiếc F-4E được cho là đã bắn hạ một chiếc Gimli đã từng trải qua những trận chiến ác liệt nhất như trận chiến với lũ Orcs tại Moria, trận Helm's Deep hay trận Pelennor mà chưa hề dính phải những vết thương nặng nề nào. Mỗi lần xung trận, Gimli thường hét to " Khazad ! Khazad ", tiếng hét của ông ta là rất to và có thể gây ra sự bối rối cho các kẻ thù. Trên mặt biển, sự ác liệt của chiến tranh diễn ra cũng không kém trên đất liền. Với thế mạnh về hải quân, Anh liên tục phong toả Đức và sau trận đánh qui mô lớn ở vùng biển Jutland thì tàu chiến Đức không dám ra khỏi hải cảng của mình. 9blZWY. Qua những bộ phim, những câu chuyện kể chắc hẳn các em đã từng chứng kiến nghe kể đến những trận chiến quyết liệt, đó có thể là cuộc chiến giữa những lực lượng đối lập, cũng có thể là cuộc chiến của chính dân tộc Việt Nam với các thế lực ngoại xâm. Hãy kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. Bài viết liên quan Kể lại một trận thi đấu thể thao ở trường em Kể một câu chuyện về đề tài Chiến thắng bệnh tật. Soạn bài Kể chuyện Kể chuyện đã nghe, đã đọc trang 120 SGK Tiếng Việt 5 Kể một câu chuyện mà em đã được nghe, được đọc về tính trung thực Đoạn văn ngắn kể lại một trận thi đấu thể thao mà em đã có dịp xem Đề bài Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnhMục Lục bài viếtI. Dàn ý chi tiếtII. Bài văn mẫu 1. Bài mẫu số 1 2. Bài mẫu số 2 3. Bài mẫu số 3 4. Bài mẫu số 4Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnhI. Dàn ý Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh 1. Mở bài Giới thiệu về trận chiến ác liệt mà em định kể em đã đọc, đã nghe kể hoặc xem trên màn ảnh 2. Thân bài- Mở đầu và hoàn cảnh xảy ra trận chiến ác liệt+ Câu chuyện diễn ra vào không gian, thời gian nào?+ Nguyên nhân dẫn đến trận chiến ác liệt?- Diễn biến trận chiến+ Sự chuẩn bị của quân ta+ Tinh thần chiến đấu, sự chỉ huy tài tình của quân ta+ Miêu tả thế trận, quang cảnh trận đánh ác liệt- Kết quả trận chiến+ Quân ta giành thắng lợi hoàn toàn+ Quân địch thua cuộc thảm bại. 3. Kết bàiNêu cảm nghĩ của em về trận chiếnII. Bài văn mẫu Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh 1. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 1 ChuẩnTrải hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã anh dũng quật cường chống lại rất nhiều thế lực ngoại xâm, nói về những trận chiến vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc không thể không kể đến trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938. Cuối năm 938 quân Nam Hán lấy cớ sang xâm lược nước ta lần hai, chúng chọn con đường biển để tấn công vào nước ta. Nắm được tình hình, Ngô Quyền đã tận dụng thời cơ và địa thế của sông Bạch Đằng để bày binh bố trận, ông cho quân lính đóng cọc gỗ ngầm và lợi dụng thuỷ triều lên xuống để làm bẫy hạ gục quân địch. Khi địch vào đến cửa sông, Ngô Quyền cho toán quân nhỏ ra đánh nhử, quân Nam Hán hăm hở đuổi theo mà không biết đã đi qua bãi cọc ngầm, đến khi nước triều rút xuống, quân ta đánh quật ngược trở lại, quân địch trở tay không kịp, tháo chạy không xong. Thuyền địch bị mắc cạn trên bãi cọc ngầm, quân địch bỏ thuyền chạy xuống sông, quân thì bị giết quân thì chết đuối. Quân ta tấn công rất quyết liệt, con trai vua Nam Hán Hoằng Tháo cũng bị giết, vua Nam Hán hốt hoảng ra lệnh rút quân, quân ta toàn thắng. Có thể nói chiến thắng này giống như một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Em hy vọng sẽ có một ngày được đến thăm trận địa cọc ngầm trên sông Bạch Đằng để thấy được những chứng tích hào hùng cho tinh thần bất khuất, quật cường của quân Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 2 ChuẩnEm đã từng được nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử nước nhà, về những người anh hùng hào kiệt. Một trong những câu chuyện đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm 542. Lý Bí vốn là người gốc Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp và từ lâu đã có lòng căm ghét bọn đô hộ phương Bắc. Nhà Lương đô hộ nước ta và siết chặt ách đô hộ bằng cách phân biệt đối xử với người Việt, chỉ có tôn thất nhà Lương và những người dòng họ lớn mới được giữ chức vụ quan trọng. Trước những chính sách cai trị hết sức tàn bạo cùng với hàng trăm thứ thuế vô lý, Lý Bí vốn làm quan giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu Nghệ An - Hà Tĩnh vì căm ghét đã từ quan về ở ẩn và ngấm ngầm lên kế hoạch cùng các hào kiệt trong vùng để nổi dậy. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình mạn Sơn Tây vào mùa xuân năm 542 đã được rất đông đảo hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó mà chỉ trong chưa đầy ba tháng quân ta đã giành lại chủ quyền khắp các quận huyện. Trước sự hùng mạnh của nghĩa quân Lý Bí nhà Lương đã phải đưa quân sang đàn áp, nhưng quân ta lại chủ động lật ngược tình thế chủ động kéo quân lên phương bắc đánh bại quân Lương. Đến năm 543 quân Lương lại tiếp tục kéo quân sang đàn áp và quân ta lại một lần nữa cho thấy sức mạnh của mình, đánh một trận ác liệt khiến cho quân nhà Lương mười phần thì chết đến bảy, tám phần. Cuối cùng các tướng địch đã bị giết gần hết, Lý Bí lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập nhà nước Vạn Xuân. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí em cảm nhận được sự đồng lòng, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì căm ghét bọn đô hộ mà quyết tâm đi theo khởi nghĩa, quyết tâm giành lại độc lập, tự chủ. 3. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 3Trong chuyến đi tham quan tại đền thờ Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh - Đông Anh - Hà Nội, em đã được nghe kể lại cuộc khởi nghĩa anh hùng của hai chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị. Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em trong một gia đình dòng dõi Hùng Vương, từ lâu đã ngầm liên kết với các thủ lĩnh trên khắp đất nước để chờ thời cơ nổi dậy giành lại chính quyền. Vào mùa xuân năm 40 cuộc khởi nghĩa nổ ra, với lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần khởi nghĩa quật cường, dũng cảm, quyết liệt, quân ta nhanh chóng đánh bại kẻ thù, chiếm lại Mê Linh rồi đánh tiếp đến Cổ Loa, Luy Lâu. Quân ta đi đến đâu quân địch sợ hãi đến đó, không có sức mạnh nào có thể đánh bại sự đoàn kết đồng lòng của nghĩa quân, quân ta đánh cho giặc tan tác, dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy, Tô Định sợ hãi đến mức phải bỏ thành, cắt tóc, cạo râu, giả làm người khác để lẩn trốn về Trung Quốc. Quân của ta tiếp tục tiến đánh quân Hán ở các quận huyện khác và đều giành được thắng lợi lẫy lừng. Thật tự hào khi dân tộc ta có những vị nữ tướng tài ba, giỏi giang và đầy bản lĩnh như Hai Bà Trưng, các bà đã đánh tan quân thù, làm rạng danh con cháu vua Hùng. 4. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 4Xuyên suốt chiều dài lịch sử, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta là một trong số những minh chứng tiêu biểu cho những giá trị vững bền và bất diệt trước vòng xoáy "một đi không trở lại" của thời gian. Điều này đã được in đậm dấu ấn trong những trang sử vẻ vang của dân tộc qua những trận chiến đối đầu với giặc ngoại xâm đầy khốc liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc ta, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc, đánh dấu sự kết thúc và chấm dứt hơn một nghìn năm chế độ phong kiến phương Bắc đô hộ nước chiến đấu trên sông Bạch Đằng tuy diễn ra vào năm 938 nhưng được nhen nhóm và bắt nguồn từ một sự kiện diễn ra vào năm 931. Lúc bấy giờ, nước ta chưa có quốc hiệu chính thức và được gọi với tên là Tĩnh Hải quân. Trước sự đàn áp của quân Nam Hán - một trong số mười nước lớn mạnh và tôn xưng là "Ngũ đại Thập quốc", người anh hùng Dương Đình Nghệ đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại quân Nam Hán. Sau chiến thắng này, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ và và giành được quyền tự chủ cho Tĩnh Hải quân. Tuy nhiên, 6 năm qua đi, binh biến bất ngờ xảy ra, để thỏa mãn tham vọng về quyền lực, một nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn đã làm phản để cướp ngôi Tiết độ sứ. Ngô Quyền vốn là một tướng sĩ dưới trướng Dương Đình Nghệ, bất bình trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn đã tập hợp một số binh lính trung thành và nghĩa khí để trừng trị, tiêu diệt kẻ cướp ngôi. Lúc bấy giờ, Kiều Công Tiễn tuy đã trở thành Tiết độ sứ nhưng lại hết sức lo sợ trước đội quân của Ngô Quyền, vì thế mà y đã cầu cứu sự giúp đỡ của quân Nam Hán để bảo vệ tính mạng cũng như quyền lực của bản thân. Hành động này của hắn đã khiến cho quân Nam Hán một lần nữa đặt bước chân xâm lược lên bờ cõi nước ta. Lưu Nghiễm - vua Nam Hán đã cử con trai thứ 9 là Lưu Hoằng Tháo thống lĩnh và đưa quân tiến vào nước ta. Đó chính là bối cảnh rộng diễn ra cuộc chiến đấu trên sông Như năm 938, cuộc chiến đấu chính thức diễn ra với hai sự kiện chính là Ngô Quyền giết chết kẻ phản bội Kiều Công Tiễn và đánh bại quân Nam Hán. Ngay sau khi tập hợp một đội quân bao gồm những binh lính và tướng sĩ trung thành, Ngô Quyền đã nhanh chóng cô lập và tiệu diệt Kiều Công Tiễn, lúc này quân Nam Hán với danh nghĩa bảo vệ Kiều Công Tiễn vẫn chưa tiến vào biên giới nước âm mưu nhanh chóng chiếm lại Tĩnh Hải quân tên gọi của đất nước ta thời bấy giờ, vua Nam Hán đã chỉ thị Lưu Hoằng Tháo thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh bằng việc đưa các chiến thuyền tiến vào sông Bạch Đằng. Trước tình thế này, Ngô Quyền đã bình tĩnh phân tích điểm mạnh của yếu của địch. Ông nắm rõ việc giết chết Công Tiễn trước đã chặt đứt đi cánh tay nội ứng của địch, khó khăn duy nhất của quân dân ta lúc này chính là những chiến thuyền mạnh mẽ và to lớn của chúng. Vì thế, ông đã bàn bạc với các tướng lĩnh để diệt trừ điểm mạnh này của kẻ địch. Ngô Quyền đã dựa vào thế nước cũng như đặc trưng thủy triều lên xuống của dòng sông Bạch Đằng để đưa ra kế sách chống địch. Những chiếc cọc lớn có bịt sắt nhọn đã được chế tạo và đóng xuống sông dưới mệnh lệnh của Ngô Quyền. Lúc nước lên cao, thủy triều trở thành chiếc màn che hoàn hảo khiến những chiếc cọc được ngụy trang một cách khéo léo. Ngô Quyền đã chỉ huy một đội quân dụ quân địch vào khu vực thượng lưu con sông - nơi mà những chiếc cọc bịt đầu sắt đang ẩn dưới làn thủy triều. Hoằng Tháo vốn hiếu thắng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, lại thấy quân ta sử dụng phương tiện là những chiếc thuyền nhẹ, nên đã vội vàng cho quân đuổi theo. Đợi lúc thủy triều rút hẳn, những chiếc cọc bịt đầu sắt nổi lên chọc thủng những chiến thuyền của quân địch, Ngô Quyền lập tức hạ lệnh cho quân ta phản công, và kết quả đã dành chiến thắng vang dội, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng và hơn một nửa binh sĩ của quân Nam Hán tử trận. Vua Nam Hán là Lưu Cung đang tiếp ứng ở biên giới cũng không kịp xoay sở trước thất bại này và ngậm ngùi gom đám tàn binh về thắng đầy hiển hách của quân dân ta trước đội chiến thuyền và đội quân hùng mạnh của quân Nam Hán đã để lại những bài học lịch sử vô cùng sâu sắc. Trước hết, nó đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và vai trò lịch sử của người anh hùng Ngô Quyền. Nhờ nắm rõ địa thế nước ta cùng tài mưu lược, ông đã đề ra một chiến lược đúng đắn, đánh tan âm mưu xâm lược và đô hộ nước ta của quân Nam Hán. Không những vậy, sau chiến thắng này, Ngô Quyền đã lên ngôi vua vào năm 939, lấy hiệu là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô và chọn Cổ Loa làm nơi đóng đô, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Trận chiến hiển hách này còn thể hiện rõ ý chí cùng tinh thần bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sơn bờ cõi của quân và dân ta và làm ngời sáng hơn nữa ngọn lửa yêu nước luôn rực cháy trong trái tim của mỗi một con người Việt thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 không những lưu danh sử sách mà còn được ghi nhận trong rất nhiều tác phẩm văn học. Dưới ngòi bút của tác giả Nguyễn Trãi, trận chiến này trở thành ví dụ điển hình cho việc khẳng định sự thất bại tất yếu của giặc ngoại xâm "Lưu Cung tham công nên thất bại" trích "Bình Ngô đại cáo". Thông qua những chiến công này, chúng ta càng hiểu rõ và tự hào hơn nữa về những trang sử đầy vẻ vang của dân tộc. Văn tự sự là dạng làm văn kể chuyện hay tường thuật lại những sự việc hay câu chuyện cho người nghe và người đọc hiểu được. Bên cạnh bài làm văn Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, học sinh và giáo viên tham khảo thêm những bài làm văn mẫu như Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong truyện đó Kể lại một lần em cùng bố, mẹ hoặc anh, chị đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết, Kể về một anh hùng chống ngoại xâm mà em biết, Kể về một người có ý chí nghị lực mà em biết hoặc được nghe kể, Kể lại một trận thi đấu bóng đá rất nhiều những bài văn mẫu hay khác các bạn cùng theo dõi nhé. Bài viết số 2 lớp 9 đề 3Viết tập làm văn số 2 lớp 9 đề 31. Lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh2. Bài viết số 2 lớp 9 đề 33. Kể lại trận chiến Bạch Đằng4. Kể lại trận đánh đồn Ngọc Hồi5. Kể lại một trận chiến ác liệt lớp 96. Kể lại bài học lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán7. Kể lại trận chiến ác liệt Đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 17898. Kể lại cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh là nội dung bài viết số 2 lớp 9 đề 3 phần viết bài tập làm văn tự sự. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ mẫu lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh cùng với các bài văn kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo khi làm bài viết tập làm văn số 2 lớp hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy KiềuMời các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa? để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu Lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnha. Mở bàiĐất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu các liệt với những chiến công hiển chiến đấu… đã để lại cho em những cảm xúc khó Thân bài+ Kể khái quát về trận chiến đấuDiễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu?Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông bà kể lại hay sau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim?+ Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn- Chuẩn bị, phòng công tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch…Lưu ý Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dũng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân Kể lại kết quả của trận chiến đấuQuân ta chiến thắng kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính và những hi sinh mất mát… Quân địch thất bại kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót…+ Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sửc. Kết bàiCảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ Bài viết số 2 lớp 9 đề 3Em đã từng được nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử nước nhà, về những người anh hùng hào kiệt. Một trong những câu chuyện đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm Bí vốn là người gốc Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp và từ lâu đã có lòng căm ghét bọn đô hộ phương Bắc. Nhà Lương đô hộ nước ta và siết chặt ách đô hộ bằng cách phân biệt đối xử với người Việt, chỉ có tôn thất nhà Lương và những người dòng họ lớn mới được giữ chức vụ quan trọng. Trước những chính sách cai trị hết sức tàn bạo cùng với hàng trăm thứ thuế vô lý, Lý Bí vốn làm quan giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu Nghệ An - Hà Tĩnh vì căm ghét đã từ quan về ở ẩn và ngấm ngầm lên kế hoạch cùng các hào kiệt trong vùng để nổi dậy. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình mạn Sơn Tây vào mùa xuân năm 542 đã được rất đông đảo hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó mà chỉ trong chưa đầy ba tháng quân ta đã giành lại chủ quyền khắp các quận huyện. Trước sự hùng mạnh của nghĩa quân Lý Bí nhà Lương đã phải đưa quân sang đàn áp, nhưng quân ta lại chủ động lật ngược tình thế chủ động kéo quân lên phương bắc đánh bại quân Lương. Đến năm 543 quân Lương lại tiếp tục kéo quân sang đàn áp và quân ta lại một lần nữa cho thấy sức mạnh của mình, đánh một trận ác liệt khiến cho quân nhà Lương mười phần thì chết đến bảy, tám phần. Cuối cùng các tướng địch đã bị giết gần hết, Lý Bí lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập nhà nước Vạn khởi nghĩa của Lý Bí em cảm nhận được sự đồng lòng, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì căm ghét bọn đô hộ mà quyết tâm đi theo khởi nghĩa, quyết tâm giành lại độc lập, tự Kể lại trận chiến Bạch ĐằngNăm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại độc lập cho nhân dân vùng Tĩnh Hải quân nhưng sau đó chưa lâu thì bị tướng Kiều Công Tiễn giết hại, âm mưu đoạt chức Tiết độ sứ. Nhận được tin dữ cha vợ bị tên giặc giết hại, Ngô Quyền tập hợp quân lính đem quân ra Bắc đánh tên nghịch tặc vì tội phản chủ. Nghe tin Ngô Quyền sắp đem quân ra đánh, Kiều Công Tiễn sợ hãi, chạy sang cầu cứu quân Nam Hán. Không bỏ lỡ cơ hội này, vua Nam Hán nhanh chóng tập binh lực lượng, giao cho con trai thứ chin là Hoằng Thao đem quân sang xâm lược một lần được tin Hoằng Thao đem quân sang đánh, sau khi tập hợp các đạo quân chính nghĩa, Ngô Quyền mang quân tiến ra thành Đại La giết chết Kiều Công Tiễn – kẻ đã “cõng rắn cắn gà nhà”, rước giặc xâm lược bờ cõi nước ta. Ông nói rằng- Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra tướng lĩnh nghe theo chiến lược của Ngô Quyền, cho là phải lắm. Vừa lợi dụng được lòng hiếu chiến và non nớt của tướng địch, lại vừa có thể dựa vào sức mạnh thiên nhiên, thật không gì có thể tốt hơn được nữa!Ngô Quyền nhanh chóng cho lính chặt những cây gỗ lớn nhất, chờ đến khi đêm xuống mới bắt đầu vát nhọn đầu, bọc sắt, chờ ngày ra trận. Bởi vậy mà mật thám quân thù không hề hay biết, chúng cứ ung dung tiến tới bờ cõi nước ta với thái độ ngông nghênh ngạo một ngày cuối đông năm 938, tại cửa sông Bạch Đằng, chiến thuyền của quân địch đã tới sát cửa sông. Hoằng Thao vừa đi vừa thét lớn- Giao Chỉ bé nhỏ này, chỉ một tay ta là ôm được tất!Ngô Quyền cho lính bơi thuyền nhẹ ra khiêu khích. Giặc hối hả bắn cung, tốt gươm sáng loáng, ta vờ thua lui về phía thượng lưu. Thấy quân sĩ ta chỉ có thuyền nhỏ, quân lại ít, giặc tưởng có thể dễ dàng ăn tươi nuốt sống nên hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền lại cho quân lùi sâu hơn nữa. Hoằng Thao hung hăng cho quân lính tiến theo, âm mưu giết sạch hết binh sĩ của ta nhưng không thể ngờ rằng hắn đã sa vào bẫy quân ta giăng sẵn! Chiều đã ngả, triều cường bắt đầu rút xuống rất nhanh. Thuyền giặc lớn nên bị mắc cạn, rơi vào thế “Tiến thoái lưỡng nan”, tiến không được mà lui cũng chẳng xong. Lúc này, Ngô Quyền mới hạ lệnh binh sĩ từ hai bên tả hữu sông Bạch Đằng sông ra đánh. Hoằng Thao hét lên- Binh sĩ đâu, tiến lên giành lấy đất Giao Chỉ cho ta!Nhưng thuyền giặc sao có thể tiến thêm được nữa! Quân ta bơi thuyền nhỏ, xông ra tấn công kẻ thù dữ dội. Thuyền lớn của quân địch bị cọc đâm thủng hết, từng tên giặc lần lượt giơ kiếm đầu hàng. Quân Nam Hán thua chạy, còn Hoằng Thao đã tử trận cùng với nửa đám quân sĩ từ lúc nào. Thuyền giặc bốc cháy ngùn ngụt trên dòng sông Bạch Đằng, tiếng reo hò vang dội của quân sĩ ta vang lên. Đó là cái giá phải trả cho những kẻ đi cướp nước!Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng ở biên giới, nghe tin con là Hoằng Thao đã tử trận bèn khóc thương rồi cho quân lui về. Từ ấy, nước Nam Hán không còn ôm mộng xâm lược nước ta nữa. Còn về phần Ngô Quyền, sau chiến thắng rực rỡ trên sông Bạch Đằng năm 938, trận thủy chiến oanh liệt của dân tộc ta, năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập ra nhà Ngô, đóng quân ở thành Cổ đời còn nhắc tên vua Ngô Quyền với trận thủy chiến trên sông ấy mãi. Người ta nói rằng đó vừa là một vị tướng tài ba, lại là người am hiểu địa hình của đất nước, xứng đáng trở thành người đứng đầu cho một chính quyền còn non trẻ bấy Kể lại trận đánh đồn Ngọc HồiTôi là người lính trong nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung. Được tham gia trận đánh nên tôi thấy rất vẻ vang khi một đất nước nhỏ bé có thể đánh thắng khi quân địch vô cùng mạnh. Đặc biệt là trận đấu Ngọc Hồi- Hà Hồi đại phá quân Thanh. Sau đây tôi xin kể cho các bạn nghe về diễn biến trận đánh ấy mùa xuân Kỷ Dậu năm bạn cũng biết hồi đó vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, nhân cơ hội đó Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi vạn quân Thanh đi thẳng vào Thăng Long xâm lược nước ta mà không tốn một mũi tên hạt đạn nào. Được tin đó Bắc Bình Vương- Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Ngay hôm đó nhà vua đã mở một đội quân ra Bắc và tôi có mặt trong đấy. Có thể nói rằng đó là một cuộc lùi binh thần tốc. Chúng tôi đi suốt ngày đêm không nghỉ bằng chân bộ. Thật là không gì bằng sức con 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và đến nửa đêm 30 Tết kế hoạch đánh đồn Hà Hồi. Là đồn nhỏ vua Quang Trung cho chúng tôi dùng mưu kế và trận đánh diễn ra nhanh chóng quân Thanh phải đầu hàng. Quả thực vua Quang Trung đúng là một người tài khi đánh đồn Ngọc Hồi thì quả là khó khăn bởi đây là đồn lớn ở địa thế bằng phẳng, bảo vệ kinh thành Thăng Long, xây dựng kiên cố, đội quân tinh nhuệ đó là điều bất lợi về phía chúng ta. Vì thế mà ta đã phải chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín mười người khiêng một bức, lung dắt dao ngắn dàn theo chữ “nhất” phía sau là đội quân binh tinh nhuệ chỉnh tề được vua Quang Trung trực tiếp chỉ đánh diễn ra mờ sáng mùng 5 Tết khi mà màn sương mù vẫn chưa tan, mưa phùn quân Tây Sơn lặng lẽ bao vây đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn mũi tên có lửa nhưng bị tấm ván cản lại làm vô hiệu hóa. Quân Thanh trong đồn dùng súng bắn ra nhưng không chúng một ai. Nhân lúc có gió Bắc hắn phun khói lửa, khói tỏa mù trời phòng làm quân ta hoảng sợ. Nhưng bỗng trời chuyển gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Thật là gậy ông đập lưng ông. Trong thành quân địch rối loạn. Thừa thế quân ta xông thẳng vào trong thành văng ván xuống đất. Khi giao gươm của hai bên chạm vào nhau thì ai nấy đều cầm giao ngắn chém bừa. Đội quân phía sau thấy thế xông lên. Khung cảnh lúc thế trận đấu thật là hỗn loạn, tiếng gươm giáo, tiếng la hét reo hò của nghĩa quân Tây Sơn họ tung hoành trên chiến trường dũng cảm. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên lung voi điều khiển ba quân tiến thẳng vào thành. Thật là một hình ảnh oai phong lẫm phút chốc quân ta đã chiếm đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Thân nằm đầy đồng, máu chảy thành suối quân địch còn lại bỏ chạy toán loạn. Trưa mùng 5 Tết vua Quang Trung cùng đội quân tiến thẳng vào Thăng Long với tiếng gieo hò của nhân dân, sắc đào của hoa xuân, tiếng pháo nổ của ngày tết. Tôi rất khâm phục khi vua Quang Trung là người trí tuệ, có tầm nhìn chiến lược. Là một người chiến sĩ tôi cũng rất tự hào vì mình cũng góp một công sức để đem thắng lợi về cho dân đây khi đất nước đã được thái bình tôi không hề quên được trận đánh vẻ vang đấy. Nghĩ lại thời đấy thì tôi vẫn rất buồn khi có nhiều người đã hi sinh, chúng tôi tự hào về cuộc chiến đấu của mình. Tôi mong rằng sau này đất nước sẽ không còn chiến tranh, mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến Hà Hồi - Đống Đa đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, niềm tự hào của con cháu muôn Kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9Lịch sử quân sự Hoàng Mai còn ghi rõ những trận đánh trên mảnh đất kiên cường này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Trong những dòng lịch sử đó, có tên Đỗ Lương Bằng, có cả thế trận chiến tranh nhân tá Trần Quốc Mỹ kể lại cho chúng tôi nghe về một trong những trận đánh tại trận địa pháo năm xưa. Giọng ông chậm rãi, đôi mắt rực sáng khi hướng về những chiến công năm ấy.…13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một tốp máy bay trinh sát A3J và F4H từ phía biển bay vào Khe nước Lạnh trinh sát khu vực Hoàng Mai. 2 đơn vị cao xạ pháo C214, D14, F34, cùng với lực lượng chiến đấu kịp thời nổ súng bắn trúng chiếc máy bay A3J. Trúng đạn, chúng cố nhoài theo hướng Đông Nam để chuồn ra biển. Nhưng đến địa phận xã Quỳnh Liên, chiếc máy bay bốc cháy nghi ngút và rơi làm 3 tên phi công nhảy dù xuống cách bờ biển khoảng Đài quan sát ở Hòn Ói lập tức báo tin máy bay rơi ở tọa độ 200 07’, giặc lái rơi ở tọa độ 210 77’ 2". Cả vùng bãi Ngang không ai bảo ai đều hô to “Máy bay địch cháy, bắt sống phi công bà con ơi”.Các xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương… đã phối hợp với lực lượng chủ lực, huy động mọi phương tiện vũ khí ra khơi bắt giặc chiến sĩ cảm tử trước khi ra đi đã gửi lại gói quần áo cho đồng chí mình và trao đổi nhanh “Nếu tôi có hy sinh thì đưa lại cho bố, mẹ tôi và nói rằng tôi hy sinh vì đã hoàn thành nhiệm vụ…”, đội hình chiến đấu được triển khai theo hình chữ V, mỗi thuyền cách nhau 100m nhằm thẳng mục tiêu lướt tới. Trên bờ, lực lượng triển khai đội hình sẵn sàng phối hợp chiến đấu. Các thuyền, máng của các xã xung quanh được xuất lúc chúng ta đang tiếp cận mục tiêu để bắt gọn 2 tên giặc lái, địch đã tổ chức đội hình ứng cứu, huy động đủ các máy bay chiến đấu 2 máy bay A6A, 4 máy bay C123, 1 trực thăng và 5 tàu chiến trực cách bờ biển 20km, sẵn sàng ứng cứu, giải thoát cho phi công lúc thuyền áp sát mục tiêu, chúng cho bọn AD6 ồ ạt bao vây các thuyền. Các chiến sỹ cảm tử vẫn không hề nao núng, vẫn bám sát mục tiêu bao vây, khép chặt giặc lái. Hai thuyền chủ lực vượt trước, quay trở lại tạo thành thế gọng kìm, thuyền thứ 3 lao tới áp đảo nổ súng. 17 giờ 17 phút, ngày 3/2/1966, 2 tên giặc lái Mỹ Hen Béc Rô Mác Rôn, Đại uý và Rôbét Hanson Trung uý bị lại chiến công của những người lính cao xạ và toàn thể quân dân đóng quân trên địa bàn Quỳnh Lưu ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng đã viết vào nhật kí “Ngày kỷ niệm thành lập Đảng tròn 36 tuổi, tối qua đơn vị phát động thi đua lập thành tích chào mừng ngày kỷ niệm thành lập Đảng, nhất là trong chiến đấu. Không khí thi đua sôi nổi hào hứng trong toàn đơn vị. Vừa hết giờ nghỉ trưa. Tiếng động cơ xuất hiện hướng 14. Lúc này là 13 giờ 5 phút, một máy bay phản lực A3J bay vào bắt mục tiêu ở cự ly 5000m và 4000m, đơn vị nổ súng. Đầu máy bay Mỹ bị bốc cháy vỡ thành 3 mảnh, cháy đỏ cả góc trời, rơi tại đất liền giữa tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân địa phương… bọn mình thật phấn khởi quá. Hò reo ầm ĩ cả trận địa. Chả là vì sau hơn 2 tháng, hôm nay mới nổ súng, lại bắn cháy ngay từ điểm xạ đầu”.6. Kể lại bài học lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam HánĐêm đã rất khuya…Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào? Làm cách nào? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa - năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đi theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con dấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho thoát đến chiều tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi lau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh!”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở Kể lại trận chiến ác liệt Đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ Lê Chiêu Thống, lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho ề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ canh năm ngày mồng 5, Nguyễn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện ề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên ề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, ức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na ôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu iền Châu Sầm Nghi ống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương Bắc, đến đây nhà Lê diệt Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. ề đốc Ô ai Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai Kể lại cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nướcMà lòng phơi phới dậy tương lai”Những câu thơ mang hào khí, tinh thần quyết chiến của những con người trẻ tuổi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Họ có thể đánh đổi cả thanh xuân, tuổi trẻ, cuộc đời mình, làm những việc tưởng chừng như không thể chỉ để hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong dịp 30/4 vừa qua, tôi đã may mắn xem được bộ phim tài liệu về cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta thời kì chống hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, sự tương quan lực lượng trên chiến trường miền Nam đã có sự thay đổi cho quân và dân ta. Đồng thời, lúc này ở Mĩ đang diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Mĩ 1968 với những mâu thuẫn nội bộ đang xảy ra, ta chủ trương mở một cuộc tiến công và nổi dậy trên quy mô toàn miền Nam, chủ yếu tập trung vào các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ, đánh sập chính quyền ngụy và buộc Mĩ phải đàm phán và rút quân về ta đã tập kích chiến lược vào hầu hết các đô thị trong đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968 trong giao thừa Tết Mậu Thân, mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy. Qua ba đợt từ đêm 30 tháng 1 đến ngày 25 tháng 2; tháng 5 và tháng 6; tháng 8 và tháng 9 năm 1968 quân và dân ta ở miền Nam đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh, 4/6 đô thị lớn, 6/242 quận lị và ở hầu khắp các ấp chiến lược, các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, quân giải phóng đã tấn công vào các vị trí đầu não của địch, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Quả thực, chính kẻ địch cũng không ngờ được cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong khi thời khắc giao thừa vừa mới điểm. Có lẽ chính vì sự chủ quan ấy mà quân và dân ta mới nhanh chóng tiến hành được cuộc tiến công thần tốc mưa bom bão đạn và khói súng mù trời, những người con anh dũng của mảnh đất hình chữ S lao ra mặt trận. Súng nổ bên tai, thần chết theo sát từng bước chân nhưng các anh, các chị vẫn vững vàng, kiên quyết không hề run sợ. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật, cực khổ trăm bề mà gan không núng, chí không mòn, tất cả chỉ chờ đợi thời khắc phản công, tấn công bất ngờ khiến địch trở tay không kịp mà cục của mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa là kẻ đi xâm lược thất bại thảm hại còn nhân dân yêu chuộng hòa bình và đánh đổi tất cả trong cuộc chiến tranh vệ quốc sẽ giành được chiến thắng vẻ vang. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc chúng phải tuyên bố phi Mĩ hóa chiến tranh xâm lược, đồng thời cũng chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc. Quan trọng hơn nữa, Mĩ đã phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Paris để bàn về việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trận chiến ác liệt, dữ dội và cam go này cũng đã mở ra một bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở Việt kiến thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc và sự anh dũng, oai hùng của thế hệ thanh niên, cha ông trong quá khứ, tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé biết bao. Họ đã hi sinh tất cả những gì mình có, chỉ để bảo vệ những gì họ yêu. Và trận chiến khốc liệt thời kì chống Mĩ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968 ấy chính là lời tuyên bố đanh thép của nhân dân Việt Nam trước những kẻ thù đang lăm le xâm lược nước ta. Giống như bài thơ thần mà Lý Thường Kiệt đã đọc bên sông Như Nguyệt năm nào“Nam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ, lai xâm phạmNhư đẳng hành khan thủ bại hư”Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã học, đã nghe, đã xem trên màn ảnh, ở trong bài viết sau sẽ cho các em học sinh một lời giải hay và chi bài viết số 2 lớp 9 đề 3 này, chúng tôi sẽ hướng dẫn các em cách viết dàn ý chi tiết và bài văn mẫu với đề bài “Kể lại một trận chiến đấu ác liệt”. Đây là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích đối với các em học sinh lớp 9 trong bài viết số 2 sắp tới. Mời các em cùng theo lại một trận chiến đấu ác liệt ở bài viết số 2 lớp 9 đề 3 cực hayContent1 Dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác Mở Thân Khái quát về trận Diễn biến chính của trận chiến diễn ra như thế nào? Ý nghĩa lịch sử của trận chiến em vừa Kết bài2 Bài văn kể lại một trận chiến đấu ác liệtDàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệtMở bàiGiới thiệu về trận chiến đấu ác liệt mà em sắp kểTrải qua hàng nghìn năm lịch sử, đất nước ta đã có biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt để bảo vệ bờ chiến Ngọc Hồi – Hà Hồi là trận để lại trong em nhiều cảm xúc bàiKhái quát về trận đấu Em biết đến trận chiến này thông qua đâu? Qua sách báo, tivi, truyện hay nghe người khác kể lại.Thời gian diễn ra trận chiến? Địa điểm diễn ra trận chiến? Nguyên nhân nào dẫn đến trận chiến này? Chống giặc ngoại xâm nào?Người lãnh đạo cuộc chiến đấu là ai?Diễn biến chính của trận chiến diễn ra như thế nào?Giai đoạn chuẩn bị chiến đấuGiai đoạn tấn côngKết quả của trận chiến Bên nào bại, bên nào thắng? Miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của người lính, quang cảnh hoang tàn sau trận chiến,…Lưu ý Ở phần này, các em nên kết hợp miêu tả tư thế, hành động của phe ta và phe địch; Quang cảnh của trận chiến như thế nào?,… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị tướng chỉ huy tài giỏi, anh dũng. Có thể thêm vào một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân dân nghĩa lịch sử của trận chiến em vừa kểGiành lại nền độc lập cho dân tộc Việt Nam chúng đổ âm mưu xấu xa của nhà Thanh, đặt nền tảng thống nhất quốc bàiTrình bày cảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu liên hệ với bản thân và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong thời đại hòa văn kể lại một trận chiến đấu ác liệtChiến tranh là điều mà không một ai mong muốn xảy ra. Mỗi cuộc chiến đi qua đều để lại những vết thương khó lành cho cả người tham chiến và người ở lại. Thế nhưng một khi bờ cõi nước nhà bị xâm lăng, quân dân ta buộc phải đứng lên chiến đấu với quân địch tàn ác . Suốt chiều dài lịch sử Việt Nam có biết bao nhiêu cuộc chiến ác liệt, thế nhưng trận chiến để lại trong em nhiều cảm xúc nhất khi đọc đó chính là trận Ngọc Hồi – Hà Hồi diễn ra vào năm 1789. Cùng quay ngược thời gian trở về thời kì phong kiến của nước ta, giai đoạn mà vua Quang Trung đại phá quân Thanh nhằm bảo vệ đất nước khỏi thế lực phương Đại Việt giai đoạn cuối thế kỷ 18 chia cắt bởi nhiều thế lực. Họ tranh nhau nhằm mục đích chiếm giữ đất nước. Lê Chiêu Thống lúc này đang cai trị ở phía Bắc thất thế bèn cầu cứu nhà Thanh. Viện cớ sang giúp triều đình nhà Lê, quân Thanh tiến vào nước ta mà không hề tổn hại một binh lính nào. Vì được vua Lê nhượng bộ, quân Thanh ra sức vơ vét, đàn áp dân ta và gây ra biết bao tội ác. Thật tàn nhẫn biết bao!Nghe tin, Nguyễn Huệ lập tức xưng ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào năm 1788. Nhà vua họp bàn và quyết định tiến quân ra phía Bắc, đây trở thành cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch khi chiến đấu, vua Quang Trung khích lệ tinh thần các chiến sĩ, cho họ ăn Tết sớm để có nhuệ khí chiến đấu. Khi hội quân ở Tam Điệp, ông đã thưởng phạt các binh lính một cách hợp lý. Ông đã dùng tội biến thành cơ hội để họ sửa chữa. Đúng là một con người anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng và biết dùng người! Cả đoàn quân của vua Quang Trung hành quân ngày đêm không Trung vì đã nắm được kế hoạch của nhà Thanh nên đã chia quân Tây Sơn ra làm 5 đạo chính. Vào đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, đạo quân của Quang Trung đã vượt sông Gián Thuỷ, mở màn cho cuộc đại phá quân đêm mùng 3 Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bí mật dàn trận bao vây đồn Hà Hồi, uy hiếp địch và bắt sống hàng vạn quân Thanh. Mùng 4 Tết, quân Tây Sơn chuẩn bị tiếp cận Ngọc Hồi. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Quang Trung, quân ta vây kín làng rồi sai bắc loa kêu gọi quân Thanh đầu hàng. Quân Thanh bị bất ngờ trước sự tiến công quá nhanh của quân Tây Sơn, không kịp kháng cự, vội vàng ra hàng và để mất hết lương thực, binh khí vào tay quân Tây Sơn. Càng về sau, vua Quang Trung càng chứng tỏ được tài năng của mình. Ông có cách đánh giặc đầy mưu trí, khéo léo, vừa không làm tổn thất quân ta, vừa giành được thắng lợi nhanh quân của Quang Trung trông rất hùng hậu, chỉ cần nhìn thôi cũng đủ khiếp sợ. Vua Quang Trung đích thân đốc thúc đại quân, tiến sát đến đồn Ngọc Hồi vào tờ mờ sáng mồng 5 Tết. Quân Tây Sơn bao vây đồn mà quân Thanh không hề hay biết. Khi phát hiện đã bị bao vây, quân Thanh lợi dụng hướng gió Bắc, tung khói lửa về hướng quân Tây Sơn. Nhưng không ngờ trời đột ngột đổi gió khiến quân Thanh tự làm hại mình. Lợi dụng tình thế rối ren đó, quân Tây Sơn thừa thắng xông lên. Tiếng gươm giáo va chạm vào nhau nghe thật ác liệt. Nhờ lợi thế về tình hình thời tiết cũng như địa hình, quân ta đã giành được ưu thế. Vua Quang Trung oai phong, lẫm liệt ngồi trên voi dẫn đường. Đoàn quân cứ thế xông lên tiêu diệt phe địch một cách dễ đội quân của vua Quang Trung bao vây, đồn Ngọc Hồi rơi vào thế thất thủ. Xác của quân địch nằm la liệt trên đất. Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử, số quân địch còn lại bị bắt làm tù binh. Sáng mùng 5 tiến công và chỉ tới trưa, quân Tây Sơn đã chiếm xong đồn Ngọc Hồi. Vua Quang Trung cùng quân đội tiến vào thành trong sự chào đón nhiệt liệt của người Ngọc Hồi – Hà Hồi đại thắng đã chứng tỏ nghệ thuật quân sự tuyệt vời của quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung. Sau trận chiến đấu giành thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta đã đập tan khát khao xâm lược của quân Thanh, giải phóng hoàn toàn kinh thành Thăng Long, giữ vững nền độc lập cho nước nhà. Không những thế, chiến thắng này còn đánh dấu việc nhà Tây Sơn chính thức thay nhà Hậu Lê trong việc cai quản đất nước và trong quan hệ với nhà công thần tốc đại phá quân Thanh đã trở thành một vết son chói lọi trong lịch sử nước nhà. Qua đó, ta thấy được trách nhiệm của thế hệ con cháu sau này trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Như Bác Hồ đã từng nói” Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Đối với đề bài “Kể lại một trận chiến đấu ác liệt trong lịch sử” được đề cập trong bài viết số 2 lớp 9 như trên, các em học sinh cần dựa trên những tài liệu lịch sử và kiến thức đã học cùng lời văn tự sự hấp dẫn để kể lại diễn biến trận đánh một cách chi tiết và chuẩn xác nhất. Vậy là chúng tôi đã hướng dẫn các em xây dựng dàn ý cơ bản và bài văn mẫu cho bài văn ”Kể về một trận đánh ác liệt”. Các em có thể dựa vào đó để tham khảo cho bài tập làm văn sắp tới của mình. Chúc các em đạt điểm thêm Đóng vai ông họa sĩ kể lại truyện Lặng lẽ Sa Pa chi tiết Văn Học Lớp 9 -Đóng vai ông họa sĩ kể lại truyện Lặng lẽ Sa Pa chi tiếtDàn ý và bài văn thuyết minh về hoa đào ngày Tết hayDàn ý tưởng tượng 20 năm sau về thăm trường cũ hay nhấtNghị luận về lòng tự trọng hay nhất Dàn ý + Văn Mẫu Cảm nhận khổ 4, 5 bài Mùa xuân nho nhỏ hay nhấtĐóng vai ngư dân kể lại Đoàn thuyền đánh cá của Huy CậnCảm nhận khổ 2 bài Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh Bài làm Sinh ra khi đất nước đã hòa bình, cũng chưa từng trải qua khó khăn, tôi chưa cảm nhận được hết nỗi mất mát của dân tộc. Cho đến khi những đổng đội cũ đến nhà thăm ông nội tôi, tôi đã cảm nhận được nhiểu điểu khi nghe các ông cùng ôn lại những kỉ niệm xưa, trong đó có trận đánh Điện Biên Phủ oanh liệt. Ngày ấy lên đường mới đơn giản làm sao, ngay cả quân tư trang cấp cho những người trẻ tuổi cũng chỉ hai bộ áo quần, một đôi dép lốp và thêm chút gạo. Họ ra đi với lời kêu gọi “ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông nội tôi khi ấy đang đi học ở Bắc Giang, còn hai người bạn của ông ở nhà cày ruộng, nhưng khi đã lên đường, họ đểu chung một lòng hướng vê' Việt Bắc, quê hương cách mạng với quyết tâm đến Điện Biên Phủ, giành lại Mường Thanh. Đó là trận đánh đầu tiên quân đội ta có pháo binh tham gia, điều đó càng tăng thêm niềm tin, ý chí và hi vọng cho nhân dân. Vậy nhưng, kẻ địch lúc đó của chúng ta là thực dân Pháp, một trong những cường quốc hàng đẩu thế kỉ XX. Quân đội Pháp chiếm cứ ở Điện Biên Phủ khi đó có đến ba trăm tiểu đội với vũ khí hiện đại nhất. Bao lần máy bay đến tiếp viện đã biến nơi này thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với mười hai đêm không ngủ đã hạ lệnh đổi hướng chiến lược, không thể “đánh nhanh thắng nhanh” trong ba ngày hai đêm như dự tính ban đẩu mà phải đánh chắc thắng chắc. Ngày ấy, nếu Đại tướng không thay đổi chiến lược, ông tôi cùng những đồng đội của mình có lẽ đã không thể trở vể và nhiều chiến sĩ khác cũng không thể tiếp tục tham gia góp sức mình vào kháng chiến chống Mĩ. Chuyển hướng “đánh chắc thắng chắc”, chúng ta có hơn một tháng để chuẩn bị, cũng có thời gian để vận chuyển pháo binh lên trận địa. Mỗi khẩu pháo có trọng lượng hơn hai tấn phải tháo dỡ từng bộ phận, trôi phà theo sông Hồng rồi chuyển đến cứ địa lắp ráp lại. Đoạn đường ấy có khi lên đến bốn trăm cây số qua đèo cao, suối sâu mà vẫn không nguy hiểm, ác liệt bằng ba mươi cây số từ trung tuyến vào trận địa. Để qua đoạn đường ác liệt này, các chiến sĩ của ta phải kéo pháo bằng tay, hoàn toàn dùng sức người và sự đổng tâm hiệp lực phi thường vượt qua gian khó. Và quyết tầm ấy đã đưa pháo của ta đặt trên những cao điểm chót vót, trở thành bất ngờ lớn đối với tập đoàn cứ điểm Điện Biên. Ông nội tôi khi đó đang ở sư đoàn 308, nhận được lệnh cùng các chiến sĩ khác hành quân đến Luông Pha Băng. Động thái này buộc Navarre cho quân nhảy dù xuống Bắc Lào đối phó. Các sư đoàn khác cũng nhận được lệnh hành quân vê' nhiều hướng khác nhau khiến quân đội Pháp tưởng rằng chúng ta đang rút khỏi Điện Biên và từ bỏ ý định giành lại nơi đây. Sau đó, quân ta tiếp tục chuẩn bị thêm hai tháng. Khi hầm hào và đường kéo pháo đã xong, sư đoàn của ông nội tôi nhận lệnh bí mật trở lại Điện Biên Phủ. Đây cũng là lúc quần địch yên tâm chúng đã tạo ra một pháo đài bất khả xầm phạm. Ngày 12 tháng 3 năm 1954, Navarre đọc nhật lệnh thông báo cuộc tiến công của ta vào Điện Biên Phủ đã tàn lụi. Ông ta không ngờ được rằng, lúc 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, lệnh tấn công của quân ta vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. Cứ điểm Him Lam bị tiêu diệt hoàn toàn trong đêm hôm đó. Sự bất ngờ đó không còn là yếu tố quan trọng với địch khi ta tiến đánh đồi Độc Lập vào đêm hôm sau. Khi đánh cứ điểm Độc Lập, hai đồng đội của ông tôi dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng, Thiếu tướng Đào Đình Sử, có nhiệm vụ mở chướng ngại vật – mười lăm lớp rào dây thép gai của địch dày đến 80m. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt ngay từ phút đầu. Quả địa pháo đầu tiên phát nổ, cả trận địa pháo ở Mường Thanh sau lưng đại đội của ông đã bắn tới tấp, súng bắn thẳng và súng cối từ trong đồn tập trung bắn vào cửa hầm. Đại đội vừa tiến công, vừa phải thu nhặt những trái bom của đổng đội ngã xuống. Khi còi hiệu lệnh vang lên, đại đội của ông chỉ còn bảy người, hơn trăm chiến sĩ đã ngã xuống. Khi nghe các ông kể đến sự việc này, không chỉ người kể nghẹn ngào mà chính tôi cũng không cầm được nước mắt. Với mỗi trận đánh, sự hi sinh gần như là quy luật hiển nhiên nhưng mỗi người nằm xuống có ý nghĩa như một hiệu lệnh tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội chiến đấu anh dũng và kiên cường hơn nữa. Trong năm mươi lăm ngày đêm đánh trận Điện Biên Phủ, chúng ta chỉ có hai mươi tư khẩu pháo trong khi địch có tới sáu mươi khẩu. Điểu đó đòi hỏi quân đội ta phải có một lối đánh chiến lược khôn khéo, bố trí trận địa hiểm hóc và phân tán. Cũng nhờ chiến lược ấy, ta đã bắn hơn hai trăm quả pháo, góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ mà chỉ hỏng một chiếc càng pháo. Sau hai ngày không làm câm họng pháo binh của ta, trung tá Pierre vốn là chỉ huy pháo binh của Pháp đã phải tự sát. Phải trực tiếp nghe những người chiến sĩ tham chiến kể lại trận Điện Biên Phủ đẩy cam go và mất mát, tôi mới hiểu vì sao sự kiện Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần lại khiến cả dân tộc đau đớn đến vậy. Nghĩ vế một thời kì oanh liệt đã qua của cha ông, tôi càng thêm biết ơn và tự hào khi được là cháu của một người lính thanh niên xung phong, một người lính bộ đội Cụ Hổ. Hình ảnh những người lính năm xưa nay mặc quần phục chỉnh tề, đôi mắt đỏ hoe và những đôi bàn tay đã nhăn nheo, đồi mồi nắm chặt tay nhau xếp hàng vào dâng hương lên Đại tướng sẽ là hình ảnh tôi không bao giờ quên được. Cùng các ông nối vào dòng người đưa tiễn Đại tướng ngày hôm ấy, chưa bao giờ khát khao được làm những điều ý nghĩa lại mạnh mẽ đến thế trong lòng tôi.

kể lại một trận chiến đấu ác liệt