Tổng Hợp Những Truyện Ngắn Kinh Dị Thể Loại: Kinh dị 1. Tôi mới về nhà sau 1 ngày làm việc vất vả. Bệ toilet vẫn ấm. Tôi sống một mình 2. Bạn nằm trên giường nhưng thõng 2 chân xuống đất. Có một bàn tay lạnh ngắt nắm chân bạn. 3.
Một trong những âm mưu của Mĩ khi tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam trong thời kì 1954-1975 là Trong khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến giữa tháng 8-1945), Nhân dân Việt Nam đấu tranh chống kẻ thù nào sau đây? Đề tăng cường xây dựng hậu phương kháng chiến, trong những năm 1951-1953, Nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ
- Ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập. Để đánh dấu sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20/10 hàng năm làm ngày truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
(Sachquyhiem) - Truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1985 là tập truyện ngắn được tuyển chọn công phu, với những tác giả nổi tiếng, có vị trí vững chắc trong nền văn học nước nhà (dòng văn học Cách mạng). Tuy là văn học "cách mạng" nhưng vẫn rất nhân văn, thấm đẫm tình người, cảm động, sâu lắng về một giai đoạn lịch sử không thể nào quên của dân tộc.
Số liệu người tỵ nạn Việt Nam từ sau ngày 30 tháng 4/1975 1. Tháng 6-1975 đến 1979: 311.400. Ðường bộ có 14.600 qua ngả Campuchia, Thái Lan. Tổng cộng 326.000.[cần dẫn nguồn] 2. 1980 đến 1984: 242.000 thuyền nhân và 11.000 tỵ nạn đường bộ. Tổng cộng đợt 2 là 253.100.[cần dẫn nguồn] 3. 1985 đến 1989: 186.500 thuyền nhân và đường bộ 10.500.
"Tôi là Đ ặng Văn Thế, sinh ngà y 22/07/1975. Năm mà trước ngà y tôi chà o đời hai tháng, quân và dân ta đã thẳng tiến vử Dinh Đ ộc Lập để bắt sống Dương Văn Minh để hai miử n Nam Bắc được thống nhất thà nh một dải. Sinh tôi ra đúng và o tháng 5 lịch sử đó, bố mẹ tôi nghĩ rằng tôi sẽ là m được một việc gì đó, có ích cho gia đình và xã hội.
keết quả xổ số miền nam minh ngọc netflix sign in membersNgàn h công nghiệp trò chơi ở Ma C ao c ó thể đư ợc coi l à một nhánh đặc biệt của ngành d u lị ch, với nh ững rà o cản cao v ề giấy phép chơi trò ch ơi v à một mô hình lợi nhuận tuyệ t vời.
6E4dsO. Ngày đăng 09/11/2012, 1055 Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn Nam Định đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975 . 3 Những bài nghiên cứu về tác giả 7 Những bài viết về tác phẩm 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 9 nhiệm vụ nghiên cứu . 9 Đối tượng nghiên cứu 9 4. Phương pháp nghiên cứu . 10 5. Đóng góp của luận văn 10 6. Cấu trúc của luận văn 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội 12 Tình hình đất nước sau chiến tranh .12 Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội . 13 Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc . 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi . 15 3. Diện mạo của truyện ngắn 19 Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người . 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng .35 Thành tựu của truyện ngắn 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975 . . 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư . 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985 . 62 Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư 63 Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng . 65 Sự trở lại của cảm hứng bi kịch . . 69 cảm hứng phê phán 71 Cảm hứng nhân văn .72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện .75 Khái niệm và vai trò của cốt truyện 75 Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975 76 Các đặc điểm kết cấu cốt truyện . 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985 87 Các kiểu nhân vật mới . 89 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật . 96 3. Nghệ thuật trần thuật .103 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật . 107 Phần kết luận 110 Tài liệu tham khảo 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006, tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường Vương Trí Nhàn ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng nhiên, trong truyện ngắn và cả truyện vừa thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985. Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997 cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn “Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến “Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001. Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999 Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường “Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000. Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996 cho rằng trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long “Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006 khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra [...]... lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Chương III Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 19751985 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1 Bối cảnh... đầu của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 19751985 Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong... luận án đã có, chúng tôi thấy nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo... hợp của câu chữ Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992 Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt... cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển... của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau 6 Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện. .. giai đoạn sau Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm từ 1975 đến 1985 số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn Có thể kể đến các tập truyện. .. những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn. .. loại, truyện ngắn đã chưng cất những mảng hiện thực của cuộc sống chiến tranh Mặc dù phần lớn truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 viết về chiến tranh vẫn bám vào các sự kiện, vẫn lấy sự kiện làm trục chính song cách triển khai vấn đề ở những truyện ngắn này cũng không hoàn toàn giống trước Những hoàn cảnh ngặt nghèo, những khúc bi thương nhất của chiến trận vẫn được khắc hoạ đậm nét trong nhiều truyện ngắn ... xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không . nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến. truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985, Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985, , Lí do chọn đề tài, Những bài viết về tác phẩm, Phương pháp nghiên cứu Đóng góp của luận văn Cấu trúc của luận văn, Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng, .Thành tựu của truyện ngắn, Sự tiếp tục đề tài chiến tranh, Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư, Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư, Cảm hứng đạo đức thế sự giữ vị trí quan trọng, Sự trở lại của cảm hứng bi kịch, Cảm hứng phê phán, Xu hướng lắp ghép liên văn bản, Vai trò của biến cố trong diễn biến cốt truyện, Đặc điểm của đoạn kết trong cấu trúc truyện, Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau, Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật
Giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác hầu như đều thống nhất sau 1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể loại”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng tiếp theo “những vụ được mùa của truyện ngắn, đây có thể coi là giai đoạn có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam”[1, 174]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình “Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại” cũng khẳng định sự thành công của truyện ngắn sau 1975 “...truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành của công cuộc đổi mới” [5, 201- 203]. Theo chúng tôi, sự vận động và thành tựu của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 bộc lộ khá phong phú ở nhiều mặt. Ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số phương diện của hình thức thể loại. Sự vận động ở dạng thức cấu trúc cốt truyện Nhìn ở dạng thức cấu trúc cốt truyện, có lẽ đây là giai đoạn mà truyện ngắn Việt Nam có dạng thức thể loại phong phú và đa dạng nhất so với từ trước đến giờ. Có thể nói, luồng gió đổi mới đã tạo ra không khí sôi nổi chưa từng có trong đời sống văn học với sự phát triển đột phá của các cá tính, phong cách. Ở loại hình văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn, có lẽ là sân chơi rộng rãi nhất để các cây bút thể nghiệm và trổ ra những tìm tòi, phát kiến mới. Có khá nhiều những “tuyên ngôn mới” về văn chương được công bố, đi liền với tuyên ngôn là những sáng tác mang tính kiểm chứng. Qua quan sát tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy một số dạng thức cốt truyện sau tiêu biểu thể hiện sự tìm tòi đổi mới của truyện ngắn sau 1975. Truyện cực ngắn, truyện ngắn ngắn, truyện siêu ngắn truyện mi ni Truyện cực ngắn hay còn gọi là truyện ngắn mi ni là khái niệm để chỉ những truyện ngắn dưới 1000 từ. Trên thế giới, dạng thức truyện ngắn mi ni không còn quá mới mẻ. Từ những năm cuối của thế kỷ 19, đầu thế kỷ hai mươi, Kapka đã viết những truyện ngắn dưới 500 Làng gần nhất nổi tiếng của ông dưới 100 từ. Một số truyện khác như Những thân cây, Về những ẩn ngữ,… chỉ khoảng 50 từ. Xu hướng viết truyện cực ngắn xuất hiện và rộ lên thành phong trào ở nước ta chủ yếu xuất hiện từ sau 1975. Vào khoảng giữa thập kỷ 80, Tạp chí Thế giới mới, phụ san của báo Giáo dục thời đại, lần đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn mi ni. Cuộc thi đã thu hút hàng trăm cây bút với hàng nghìn tác phẩm trên khắp cả nước. Cuộc thi không chỉ xới lên hứng thú viết truyện mi ni mà còn tạo dấu mốc, từ nay truyện mi ni sẽ có chỗ đứng trong sự quan tâm của độc giả Việt Nam. Trong thời đại thông tin như hiện nay, người ta đọc truyện qua Môbai, qua các trang Web điện tử nên xu hướng viết truyện mi ni đang là sự lựa chọn của nhiều cây bút, nhất là những cây bút thế hệ 8X, 9X. Đặc điểm của truyện cực ngắn là sự giản lược tối đa tình huống, tình tiết, chi tiết truyện. Nếu truyện ngắn “sống” bằng chi tiết thì truyện mi ni “sống” bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong truyện mi ni không có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng. Người đọc không phải quá bận tâm về tình tiết, chi tiết mà cần quan tâm đến sự gợi mở của các tình tiết, chi tiết ấy. Ở truyện cực ngắn, tình tiết, chi tiết như chiếc chìa khoá để mở ra những lớp ý tưởng mà tác giả muốn gửi gắm và người đọc đồng sáng tạo. Thử khảo sát một vài truyện sau Truyện “Nó” Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó. Đau khổ và hạnh phúc. Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc đêm. Mẹ chỉ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái, dỗ dành “Ngoại có đi đâu! Ngoại ở đây mà!”. Vậy là nó nín. Rồi mẹ cũng theo bà. Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo “Mẹ có đi đâu! Mẹ ở đây mà!” rồi lấy tay đặt trên ngực trái, chỗ trái tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại ôm nó khóc to hơn. Thanh Hải [ Có một số chi tiết được nói tới nhưng không được khai thác mà chỉ đưa ra như những thông báo Ba bỏ đi, Ngoại mất, Mẹ mất. Nó khóc đòi ngoại Có nhân vật Ba, Ngoại, Mẹ, Dì, và Nó, nhưng cũng chẳng có nhân vật nào được khắc hoạ tính cách cụ thể mà chỉ được gợi ra, được nhắc đến, có vai trò như “phông”, “nền” để tác giả đóng lên cái “đinh” chi tiết. Toàn bộ câu chuyện này xoay quanh chi tiết được dùng hai lần, chi tiết “đặt tay lên ngực trái, chỗ trái tim”. Mẹ nó đã dùng cách ấy để an ủi nó khi Ngoại nó mất. Trái tim bé thơ của nó đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sự cứu rỗi đó và nó cũng định dùng cách này để giúp Dì. Nhưng Dì nó không những không nín mà còn “ôm nó khóc to hơn”. Nếu coi đây là chi tiết diễn đạt tư tưởng của truyện thì ngay cả ở chi tiết này tư tưởng cũng không nằm trong chi tiết mà nằm ngoài chi tiết. Người đọc có thể thấy sức nén của chi tiết. Tác giả không mô tả chi tiết, không diễn tả cảnh huống mà chỉ thông báo “kết quả” của cảnh huống, vì thế tất cả nội dung của truyện được “gợi” chứ không “tả”. Chẳng hạn, để thuyết phục một đứa trẻ thiếu cha, mẹ bươn chải kiếm sống, tuổi thơ sống với bà, được bà yêu chiều bằng sự bù đắp tình thương thì khi bà mất, chắc chắn đó sẽ là một mất mát lớn, không thể chỉ bằng một động tác và một lời thuyết phục đơn giản “Ngoại ở đây”. Nhưng chi tiết đứa trẻ vận dụng cách ấy để thuyết phục người lớn thì có thể có thật vì nó là đứa trẻ, tâm hồn ngây thơ trong trắng và tình yêu bà khiến nó có điểm tựa niềm tin. Có thể nói, tác giả đã “tóm” được chi tiết vừa giàu sức khái quát vừa rất cụ thể sinh động này để tạo nên hồn cốt cho tác phẩm Tình yêu, sự yêu thương, chia sẻ, cảm thông, lòng nhân văn, nhân ái, vẫn là nội dung dễ lay động lòng người. Đó là điểm bắt đầu và là cái đích cuối cùng trong hành trình mà tạo hoá ban cho hành trình làm người. Tác giả Thuý Bắc lại có một truyện ngộ nghĩnh khác, truyện “Con muốn” Cu Tí, ngoài giờ học bán trú ở trường. Buổi tối và chủ nhật còn phải thêm môn học đàn, học vẽ, học tiếng Anh. Thằng Tèo nhà bên cạnh bố mất sớm, mẹ nó phải nuôi ba đứa em nên Tèo phải nghỉ học. Hàng ngày mỗi khi nghe thấy tiếng đàn của Tí, Tèo rón rén nép mình bên hàng rào nhòm vô. Nhìn ra thấy Tèo đứng đó, Tí mếu máo - Ba ơi, con muốn được như thằng Tèo [ Ở truyện này, ý nghĩa của truyện cũng không nằm trong chi tiết mà nằm ngoài chi tiết, từ sức gợi của chi tiết Tèo, đứa trẻ thiếu cha, thèm những gì mình không có; Tí - quá đủ đầy sinh ra tâm lý ngược lại muốn chối bỏ những điều kiện quá đủ đầy mà với tuổi thơ, có khi đó lại là gánh nặng, là áp lực. Triết lý rút ra từ đây Hạnh phúc là cái gì thật khó giải thích, bất hạnh của kẻ này đôi khi lại là niềm mơ ước của kẻ khác. Song, ý nghĩa của câu chuyện không chỉ có thế. Từ mâu thuẫn đằng sau tiếng cười là nước mắt, là thông điệp đầy day dứt xã hội vẫn còn nhiều những cảnh ngộ éo le như hoàn cảnh của cu Tí; làm sao để mọi đứa trẻ đều được đến trường? làm sao để có một nền giáo dục lý tưởng - ở nền giáo dục ấy mọi trẻ em đều được quan tâm đúng như tinh thần của câu khẩu hiệu “Hãy giành cho trẻ em những gì tốt nhất”. Ở môi trường giáo dục ấy, mọi trẻ em đều tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, tình bạn, và niềm tin yêu vào cuộc đời. Hoặc giả, có thể còn thông điệp khác, hãy bớt chút thời gian để quan sát cuộc sống của những người xung quanh, ta sẽ nhìn ra mình rõ hơn, có cách sống hài hoà hơn, biết chia sẻ và cảm thông với đồng loại. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyện mi ni đang ngày càng nở rộ và chiếm lĩnh văn đàn ở nhiều hình thức. Truyện trong truyện và truyện liên hoàn Ngược lại với kiểu truyện mi ni, dạng thức truyện trong truyện và truyện liên hoàn lại là hình thức kéo dài truyện, chuyện nọ kéo sang chuyện kia hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi khá phức tạp. Đại diện cho kiểu kết cấu cốt truyện này là Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều chi tiết, tình tiết. Mỗi nhân vật trong tác phẩm có thể đều tạo ra một đường dây sự kiện riêng, một mạch truyện riêng. Tác giả giống như người ưa la cà, và cũng là người tinh thông mọi chuyện, vì vậy, hễ cần dừng lại để lý giải, cắt nghĩa thì dường như ngay lập tức điều đó sẽ được làm sáng tỏ ngay. Thử lấy truyện Tướng về hưu làm minh chứng. Trong truyện ngắn này người đọc thấy có một loạt mạch truyện về các nhân vật có tên trong tác phẩm Chuyện về tướng Thuấn, liên quan đến nhân vật chính này là chuyện về vợ tướng, con trai của tướng, cô con dâu, hai bố con người giúp việc, ông em họ xa, cô cháu họ xa, thậm chí một kẻ tạt ngang câu chuyện như một vết nhơ như nhân vật Khổng ở xí nghiệp nước mắm - nhà thơ cũng được tác giả “trích ngang” mấy dòng đủ để hình dung về loại thi sĩ nửa mùa kém cỏi về nhân cách. Truyện Con gái thuỷ thần là ba truyện ghép lại theo cấu trúc rất rời rạc truyện thứ nhất, truyện thứ hai, truyện thứ ba. Đặc biệt hơn, truyện Những ngọn gió Hua Tát lại ghép từ 10 truyện, mỗi truyện đều có nội dung riêng, tình tiết riêng. Song, có một điều đặc biệt là, mặc dù truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều sự kiện, mạch truyện như vậy nhưng vẫn là truyện ngắn với những yêu cầu nghiêm nhặt của thể loại, bởi những lý do sau thứ nhất, mỗi truyện đều lấy điểm tựa là một lát cắt tình huống cụ thể, một sự kiện chính gắn với một nhân vật trung tâm. Mọi vấn đề xoay xung quanh tình huống chính ấy dù phức tạp và rối ren đến mấy cũng là thành phần nằm “ngoài cốt truyện”. Cái “lõi” thực của cốt truyện vẫn rất đơn giản. Chẳng hạn, truyện Tướng về hưu là tình huống tướng Thuấn sau bao năm trận mạc về nghỉ hưu tại quê nhà. Trong những ngày được tiếp cận với cuộc sống đời thường, vị tướng được chứng kiến thực tiễn của thời mở cửa cơ chế. Tình huống của truyện Sang sông là đứa bé tinh nghịch đút tay vào chiếc bình cổ. Tình huống của truyện Thương nhớ đồng quê sự kiện cô cháu họ xa về thăm quê. Trước mắt cô gái từ bé đã sống ở thị thành, từng du học bên Mỹ, con người và đồng quê Việt Nam thật là một thế giới mới lạ đối với cô. Nhâm, người có nhiệm vụ đón cô gái, đồng thời là “hướng dẫn viên” giúp cô tìm hiểu về con người và cuộc sống nơi đây Theo phong cách kết cấu cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp là Phan Thị Vàng Anh và Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn Mười ngày của Phan Thị Vàng Anh cũng được cấu trúc “rời” như vậy, từng ngày một, đúng mười ngày, mười mẩu chuyện nhỏ về diễn biến tâm lý của một cô gái chờ đời người yêu về quê nghỉ tết trong mười ngày. Hàng loạt các truyện Đất đỏ, Khi người ta trẻ, Si tình, Hoa muộn được đánh số các phần. Toàn bộ truyện ngắn được “ghép” từ các mẩu chuyện nhỏ. Người đọc có cảm giác, việc kết thúc hay kéo dài truyện hoàn toàn nằm trong “ngẫu hứng” của tác giả. Sự trễ nải của mạch truyện nằm trong ý đồ của người viết, cũng là một phần tư tưởng của truyện. Như vậy, khi “cài” các đường dây sự kiện xung quanh sự kiện, tình huống chính, tác giả đã mở rộng phạm vi tiếp cận và phản ánh hiện thực. Kiểu truyện lồng trong truyện thể hiện cách nhìn vừa bao quát song cũng thật cụ thể, một cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống và con người. Truyện giả thể loại giả ngụ ngôn, giả cổ tích, giả truyền thuyết, truyện truyền kỳ… Giả thể loại cũng là một xu hướng làm mới dạng thức của truyện ngắn sau 1975. Các dạng thức như ngụ ngôn, cổ tích, truyền thuyết, về mặt hình thức có dáng vẻ giống truyện ngắn dung lượng ngắn, chỉ viết về một chuyện và về một vài nhân vật, phạm vi không – thời gian hẹp. Điểm khác biệt lớn nhất giữa truyện ngắn hiện đại với các loại hình truyện dân gian trên là, truyện dân gian không cần quan tâm đến lô gíc hoặc tính xác thực của câu chuyện. Ý nghĩa của truyện đã được định hướng sẵn và sẽ đạt tới mục đích như ý muốn. Đặc biệt, yếu tố huyền thoại kỳ ảo tham gia như một nhân tố chính, nếu không nói là bắt buộc của quá trình sáng tạo truyện. Chẳng hạn, trong truyện ngụ ngôn Trí khôn của ta đây, con hổ biết nói tiếng người, hiểu tiếng người nên bị anh nông dân lừa; Truyện Thánh Gióng với việc Thánh Gióng cởi áo giáp bay về trời; Truyện Nỏ thần với việc Thần Kim Quy hiện ra giác ngộ cho nhà vua và rẽ nước dẫn nhà vua xuống thuỷ cung; Truyện Trầu cau, có việc ba người chết đi hoá thành trầu, cau và đá vôi; Truyện Tấm Cám lại có rất nhiều lần hoá phép Tấm hoá thành chim vàng anh, thành quả thị, thành khung cửi, Một số cây bút hiện đại muốn “mượn” lại hình thức dân gian này để “lạ hoá” nội dung câu chuyện định kể. Hình thức “mượn” thứ nhất là “mượn” chi tiết. Các tác giả dùng các chi tiết mang tính huyền thoại kỳ ảo tham gia vào đường dây tổ chức cốt truyện để tạo sức lôi cuốn hoặc đó chính là cách để tác giả tôn vinh hay phủ định theo cách của dân gian. Song, để yếu tố huyền thoại có chỗ đứng, các tác giả đã tìm ra giải pháp lời đồn, nghe phong thanh, có người kể lại, hoặc dùng hình thức “giấc mơ”, có khi cũng nói thẳng “truyền thuyết huyễn hoặc” Chẳng hạn như các chi tiết “có người kể rằng khi lửa bốc cao thì trong quán có con chuột to bằng bắp chân người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch” để ám chỉ việc chứa chấp những việc làm phi nhân tính của lão trùm Thịnh trong truyện Chảy đi sông ơi; Chi tiết hoa Tử huyền ba mươi năm nở một lần, ai may lắm mới bắt gặp như một phần thưởng cho ông Diểu, khi ông thả con khỉ bị thương ra, nồng nỗng trở về tay không sau chuyến đi săn trong truyện Muối của rừng; Chi tiết nhóm thợ được đi trên cầu vồng bảy sắc trong truyện Những người thợ xẻ cũng là cách bày tỏ thái độ khen ngợi những con người có cái tâm thiện theo cách ứng xử dân gian; Chi tiết hôm Nguyễn tức Nguyễn Trãi ngỏ lời cầu hôn Thị Lộ. “Đồn rằng hôm ấy có rồng bay trên sông cái” trong truyện Nguyễn Thị Lộ cũng bày tỏ thái độ ngưỡng mộ cặp “trai anh hùng gái thuyền quyên” mà số phận bi ai hiếm có trong lịch sử. Song chi tiết Đặng Phú Lân bị chém vì chính thanh kiếm gia truyền nên máu không đỏ mà trắng trong truyện Kiếm sắc lại mang thông điệp khác, sự oan nghiệt của số phận; Hình tượng Mẹ cả trong truyện Con gái thuỷ thần mang thông điệp về sức hấp dẫn của niềm tin, của chân lý hoặc lý tưởng, đôi khi là ảo ảnh. Giấc mơ của cô cháu gái trong truyện Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo cũng là một cách bộc lộ quan niệm về vẻ đẹp của tình yêu gắn với nghĩa vụ công dân trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm. Hình thức “mượn” thứ hai là “mượn” lối viết. Những câu chuyện hư cấu và tưởng tượng hoàn toàn song lại mượn lối viết “chép lại”, có căn cứ, có tài liệu, có địa chỉ cụ thể, thậm chí còn dựng “gia phả” dòng họ kiểu như Nguyễn Huy Thiệp viết Giọt máu, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Nguyễn Thị Lộ, Chút thoáng Xuân Hương Với cách viết này, tác giả vừa làm sống lại những thông tin lịch sử khô khan, vừa tạo sắc thái hư hư thực cho những câu chuyện “bịa đặt” thêm phần hấp dẫn. Sự vận động đổi mới ở phương diện trần thuật Trong quan điểm thi pháp thể loại hiện đại, trần thuật có vai trò như là khâu then chốt thể hiện sự cách tân của một tác phẩm, một nền văn xuôi. Nền văn học nào sớm có những khám phá đổi mới ở phương diện này được coi là nền văn học đi tiên phong trên hành trình hiện đại hoá văn học. Một trong những phát kiến vĩ đại của nhà bác học Nga Baktin là đã dùng khoảng cách trần thuật để phân biệt bản chất thể loại của sử thi và tiểu thuyết một cách rõ ràng, khoa học và chính xác nhất. Dấu hiệu khởi sắc theo hướng hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nói chung, mà trước hết là ở thể loại truyện ngắn cũng thể hiện rất rõ nét ở phương diện trần thuật. Sự đa dạng, phong phú, biến hoá của trần thuật đã đem lại cho truyện ngắn sau 1975 những biến hình mới, sinh động và thực sự hấp dẫn. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thuật “nhập vai” Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thật “nhập vai” là để chỉ cách trần thuật linh hoạt khi vai trò “phát ngôn” được trao cho nhiều người, nhiều đối tượng trong tác phẩm. Không còn chỉ có một người kể chuyện mà nhiều người kể. Trước một vấn đề, một sự việc nào đó, vì được soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ hiện ra bằng diện mạo, hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dư luận, nhận xét khác nhau, thậm chí ngược nhau, do các điểm nhìn khác nhau về tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, học vấn, đôi khi là thói quen, sở thích văn có xu hướng đổi mới trần thuật sớm nhất cho nền truyện ngắn sau 1975 là Nguyễn Minh Châu. Trong truyện ngắn Bức tranh, tiếp đó là hàng loạt truyện ngắn khác của ông như Chiếc thuyền ngoài xa, Cơ giông, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau đều có cái nhìn đa chiều, trong xu hướng đối thoại này. Chẳng hạn, trước số phận cực nhọc, cam chịu của người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều “cái nhìn” soi rọi vào Cái nhìn trẻ thơ trong sáng của đứa con trai khi nó kết án ông bố tàn bạo và thề sẽ giết chết ông ta. Nhưng đứa chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa ngăn nó lại. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng giải pháp ly hôn là đúng đắn nhất để cứu người đàn bà. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu tất cả những trận đòn tàn nhẫn và phi lý của chồng thì nhìn nhận khác hẳn “Lòng các chú tốt nhưng các chú không hiểu hết cuộc sống sông nước”. Cuộc sống ấy không thể thiếu bàn tay chèo chống của một người đàn ông và ý nghĩa của người đàn bà là phải vì con cái mình. Từ Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Khải và đặc biệt đến Nguyễn Huy Thiệp, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã đạt đến đặc sắc. Để tạo ra sự bình đẳng cho các điểm nhìn, tác giả - người kể chuyện không làm thay nhân vật mà chỉ đóng vai trò “dàn dựng” lại sự việc. Thậm chí sự “dàn dựng” này như được làm một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn, đoạn kể về cha con tướng Thuấn bàn bạc việc gia đình “…Cha tôi bảo “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo “Không!” Vợ tôi bảo “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo “Để xem đã!”[8, 19]. Hoặc một cảnh khác “Tôi cũng không hiểu tại sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo “các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo “Thế thì không có”. [8, 20]. Đọc Nguyễn Huy Thiệp có cảm giác, người kể chuyện không mấy khi thực hiện vai trò “kể” mà phần lớn chỉ thực hiện vai trò sắp xếp, tổ chức, nói đúng hơn, người “cắt dán” các cảnh lại với nhau với ý đồ trung thực nhất, ít chủ quan nhất bằng cách hạn chế thấp nhất sự tham gia của trữ tình ngoại đề. Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, nhiều lúc không tránh khỏi cảm giác thấy truyện rời rạc, lỏng lẻo, lan man. Tuy nhiên, người đọc được trải nghiệm nhiều cảm giác, suy nghĩ, được tranh luận và tự mình thấu nhận, rút ra những điều bổ ích. Và quan trọng nhất là tránh được cảm giác nhàm chán, đơn điệu trong cách tiếp cận tác phẩm. Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm Ngược với kiểu trần thuật “nhập vai”, trao vài trò kể chuyện cho nhiều người là kiểu trần thuật bằng “dòng ký ức nội tâm”. Với cách trần thuật này, mọi chuyện diễn ra trong dòng chảy ký ức hoặc dòng chảy nội tâm. Đây cũng là cách để tác giả “khách quan hoá” nội dung hiện thực trong tác phẩm hoặc tha hồ khám phá miền ẩn ức bên trong của tâm hồn con người. Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và hàng loạt cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Miêng, Trang Thanh, Trần Đức Tiến, Đỗ Hoàng Diệu đi theo xu hướng này. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là dòng chảy miên man trong suy nghĩ của nhân vật Nương- cô gái tội nghiệp, nạn nhân của thái độ vô trách nhiệm của người lớn, của sự tan vỡ hạnh phúc gia đình. Trong truyện ngắn này ai cũng nói rất ít, phần lớn những câu đối thoại hay độc thoại đều được “dịch” thông qua những phán đoán suy nghĩ chứ không phải là những lời thoại trực tiếp. Qua ký ức của cô bé, tuổi thơ hiện về, ba, má, cuộc sống nghèo mà yên bình trong xóm nhỏ. Rồi những bất ngờ dữ dội xảy đến, má bỏ đi, ba hận má, hận cuộc đời, kế đó là những năm tháng trôi nổi, phiêu dạt như những kẻ cô đơn, lạc loài trong xã hội loài người cho đến khi tai hoạ thực sự rơi xuống đầu…Kết thúc truyện vẫn là những dòng ký ức đau nhói, hoà trộn xót xa vói ân hận, thức ngộ và đau đớn tột cùng “…Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi sao tôi lại không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy để giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về [9, 212]. Miêng trong truyện Hải nữ, Trần Đức Tiến trong truyện Miền cực lạc còn sáng tạo ra kiểu “phân thân” giữa linh hồn và thể xác để đi du ngoạn trong thế giới thầm kín, riêng tư nhất của nhân vật. Trong thế giới ấy, người ta như là một con người khác, nhiều khi khác biệt hoàn toàn với con người thường ngày. Con người hàng ngày của ông P là một con người bình thường hết sức, bình thường đến mức không gây một chút chú ý nào cho ai, ông lại có tính hay đỏ mặt. Nhưng khi ông tự tách linh hồn ra khỏi thân xác và linh hồn ông tự do phiêu diêu thì linh hồn ấy có thể làm những chuyện không thể tưởng tượng nổi. Ông P luôn luôn đi thực hiện những chuyến gặp gỡ, hẹn hò bí mật với những người đàn bà mà ông thích hoặc muốn một á hậu xinh đẹp, một cô thợ may mà ông thấy gần gũi, có lúc còn lạc vào nhà thổ như với cách thể hiện này, tác giả muốn chứng minh, trong con người ta ai cũng có hai con người. Một con người với thân xác hiện hữu cùng với muôn mối ràng buộc của nghĩa vụ và trách nhiệm và một con người bên trong thầm kín với những suy nghĩ, việc làm chỉ mình mình biết. Con người bên trong ấy có đời sống riêng và luôn tìm cách chống lại con người cụ thể với thân xác hiện hữu. Phải chăng, đó cũng là nhận thức và khám phá về sự phức tạp của con người. Kiểu trần thuật dòng ký ức thường được những cây bút trẻ khai thác, có lẽ vì nhu cầu khám phá, nhất là khám phá bản thân luôn là nhu cầu của lứa tuổi này. Gián cách thời gian trần thuật Gián cách thời gian trần thuật là cách mà Nguyễn Thị Minh Thư đã sử dụng trong truyện ngắn Có một đêm như thế. Cùng một lúc tác giả cho xuất hiện ba lớp thời gian nhưng không phải kiểu thời gian đồng hiện hoặc liên tưởng của ký ức. Tuy nhiên, cách trần thuật này dường như không mấy thông dụng, bởi không có nhiều người lựa chọn lối viết gián cách này. Có lẽ cách viết này có cái khó riêng không dễ áp dụng hoặc sáng tạo. Sự vận động đổi mới ở phương diện ngôn ngữ Với tư cách là công cụ của tư duy, là “cái vỏ của tư duy”, sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Vì vậy, sự xác định tiêu chí cho vấn đề này không dễ. Chẳng hạn, nhiều người đánh giá cao bước phát triển của ngôn ngữ văn xuôi hiện nay thí dụ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong lần nói chuyện với cán bộ, sinh viên khoa Ngữ văn- ĐHSP Hà Nội ngày 16-4-1994 cho rằng; “Lớp trẻ đã có ngôn ngữ mới. Nguyễn Huy Thiệp là người thực sự cách tân ngôn ngữ truyện ngắn. Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh cũng thế”. Nhưng cũng nhiều người phản ứng, hoảng sợ, họ thấy văn Nguyễn Huy Thiệp “dung tục”, “kinh tởm”, văn Phạm Thị Hoài là văn của người “nhìn đời Việt Nam bằng con mắt Do Thái và văn viết bằng tiếng của ý kiến của tác giả Triệu Minh về Phạm Thị Hoài trên văn ghệ số 2- 1996. Tiếng Việt trong sáng nhờ được mỹ lệ hoá hay chính xác hoá, nhờ sự khu biệt hay khả năng hội nhập? Những vấn đề này cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Ở đây, chỉ nêu một số đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật thấy đổi khác so với giai đoạn trước 1975. Ngôn ngữ đời thường- gia tăng tính khẩu ngữ Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được nói thật”. Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm chống tiêu cực ra đời. Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp như một hiện tượng “lạ”. Ngoài khả năng biến ảo của một bút pháp đa dạng, đa tầng, tác giả này còn gây cú sốc thực sự cho ngôn ngữ văn học. lối nói “cộc lốc”, sắc bén và hàm súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn chế tối đa các liên từ, nén năng lượng làm rung chuyển lối văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi bút tác giả này như không hề biết đến những gửi thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều khi rất nhiều khách sáo, mặc nhiên khẳng định tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người. lối văn đó phù hợp với cái hiện thực đời thường mà anh mô tả. Chẳng hạn, tác giả tả đám cưới của anh chàng lái xe bò kết hôn với cô mẫu giáo con ông vụ phó “đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc com lê đen, cravát đỏ. Tôi phải cho mương cái cravát đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn nhưng chắc gì đòi được. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp…” [8, 22] Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội, xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân lý, vừa tự tin vào mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Họ sử dụng văn chương để bộc lộ “cái tôi” cá tính là chính, nên họ quan tâm hơn đến vấn đề “viết như thế nào”. Phạm Thị Hoài quan niệm “viết như một phép ứng xử”. Và trong quan niệm ấy, nhà văn nữ này chọn phép ứng xử không tiếp tục thứ văn chương “đặc sản dành riêng cho những người sành ăn” như văn chương Nguyễn Tuân mà chọn hướng văn chương “gia tăng tính khoa học, tốc độ và khả năng biểu đạt tư duy hình tượng của nó”. Có thể nói, chưa bao giờ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần trụi xuất hiện nhiều đến thế. Để chống lại lối văn chương nhiều tính hành chính khô khan hoặc du dương thi vị nhưng ít cá tính, ngôn ngữ truyện ngắn dung nạp rất nhiều khẩu ngữ, cố tính coi thường cú pháp, “nhại” lại mọi ngôn ngữ kiểu cách. Chẳng hạn “Man Nương, tôi gọi em như vậy những buổi chiều bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ trong căn phòng trống rỗng tầng ba có hai nhành xanh một thứ cây nào đó tôi không bao giờ biết tên” Man Nương- Phạm Thị Hoài. Hoặc “Chức cách đây mấy hôm tthấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch” Hoa muộn- Phan Thị Vàng Anh; “Cái lão Khúng này thiết đếch gì! Sao với chả trăng! Cho cái mặt trời ông cũng đếch thiết nữa là!...” Phiên chợ Giát- Nguyễn Minh Châu; “…thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh còn nhớ thượng tướng Th không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ đổi con Tuýt lấy một cặp bẹc giê Sibêri đấy. Ồ xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi”Con thú bị ruồng bỏ- Nguyễn Dậu Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận Nhu cầu gia tăng tính tốc độ và thông tin đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, liên quan đến nhịp sống hiện đại, nhất là nhịp điệu của cơ chế thị trường. Tính tốc độ thể hiện ở cách vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén thông tin. Ở phương diện ngôn ngữ, có thể nhận thấy việc sử dụng các “điển cố” hiện đại như các thuật ngữ khoa học chuyên ngành, thậm chí cả tiếng nước ngoài vào trong diễn đạt, chẳng hạn “chuỗi xoắn kép, đột biến, bức xạ nhiệt, đồ thị hyperbol, the end of something cụm từ này thay thế cho rất nhiều lời diễn giải. Nhiều khi, một thứ ngôn từ ước lệ, “hàm súc” và nhiều ngụ ý bắt nguồn từ sinh hoạt giao tiếp hiện đại, nếu được sử dụng đắc địa, nó vừa như một hình thức phổ biến của khẩu ngữ Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử, tâm lý, vừa chuyển tải được thông tin lớn. Thí dụ “Bản nhạc đánh theo kiểu nội địa” Chuyện thày AK. Kẻ sĩ Hà Thành. “Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị trường quốc tế, nào liên doanh thương mại thế mạnh” Đất xóm chùa- Đoàn Lê; “Đảm bảo không có chuyện Nguyễn Văn Mười Hai” Vũ điệu của cái bô- Nguyễn Quang Thân Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều ngụ ý. Ngôn ngữ này là kết quả tất yếu của tính phức điệu, đa thanh trong tư duy tiểu thuyết. Mặt khác, ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng thú triết luận càng ngày càng nổi rõ trong văn xuôi. Văn Nguyễn Huy Thiệp đa nghĩa từ chi tiết đến tổng thể, nhiều sức gợi liên tưởng ra bên ngoài tác phẩm. Cái “phức tạp”, “nhiều tầng lớp” có được, một phần là nhờ ngôn ngữ đầy tính ẩn dụ, nhiều nghĩa, cho phép người đọc phát huy cao độ sức liên tưởng và kinh nghiệm cá nhân vào việc lĩnh hội nghệ thuật. Xin nêu một số ví dụ lời Đặng Phú Lân nói với Nguyễn Ánh về thanh bảo kiếm “Trước chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm, thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó” Kiếm sắc; “Trời rất xanh. Giữa trời có đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền triết biến thành con chó xồm lớn”Nguyễn Thị Lộ- Nguyễn Huy Thiệp. Các tác giả có thiên hướng kiếm tìm ý nghĩa triết học nhân sinh qua diễn tả đời sống cụ thể. Điều đó đem lại cho các tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ quát. Đáp ứng yêu cầu này, ngôn ngữ văn xuôi tất yếu sẽ bớt đi phần “kể”, phần “tả” và tăng phần triết luận, khái quát, nhà văn khi ấy sẽ hiện diện qua ngôn ngữ “trữ tình ngoại đề”. Ở Nguyễn Minh Châu, thường thấy như vậy “Rồi thì cũng như mọi người khác, tôi vẫn không thể đi trốn được số phận, tôi không thể đi trốn được khỏi cuộc đời mình một khi mà tôi còn sống”, “chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt lên”, “Nỗi đau mất mát trong lòng người đàn bà lắm khi chả khác nắm cỏ trong dạ dày loài nhai lại..”Cỏ lau. “Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi” Con thù bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu. Cùng với hình thức đã có nhiều thay đổi, ngôn ngữ của truyện ngắn ngày nay, linh hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Ba chục năm qua, nhìn lại ngôn ngữ của truyện ngắn nói riêng, văn xuôi nói chung đã hiện diện qua “các cuộc thí nghiệm”. Đã là thí nghiệm không tránh khỏi phiêu lưu. Tuy nhiên, “cùng với thời gian và độ chín của các tài năng, ngôn ngữ của truyện ngắn đã và đang đạt đến độ ngưng kết mới”. Kết luận Truyện ngắn Việt Nam trong vòng ba mươi năm qua đã đi trọn một chặng đường. Chặng đường ấy gắn liền với sự kiện chính trị trọng đại Đại hội VI quyết định cho công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước. Văn học thuộc lĩnh vực nhận thức xã hội thông qua cá nhân nhà văn nên không thể không chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của xã hội. Truyện ngắn sau 1975 tuy có khác nhiều so với truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 nhưng nó vẫn phát triển trên cái nền của những thành tựu truyện ngắn 1945 - 1975 đã đạt được. Ngay những nhược điểm, những hạn chế không thể tránh khỏi của giai đoạn trước cũng giúp cho kinh nghiệm nghệ thuật của giai đoạn sau rất nhiều. Nhìn tổng thể, sự vận động của truyện ngắn sau 1975 đã diễn ra giống như một cuộc nhận đường toàn diện và sâu sắc từ ý thức nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi pháp. Sự vận động ấy hướng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt hình thức, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt nhất ở ba phương diện dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân ở ba phương diện ấy đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt Nam, thể loại vốn được xem là thể loại “cái” của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn chủ biên 2006, Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, H. 2. Nguyễn Đăng Mạnh, "Nói ngắn về truyện rất ngắn", Thế giới mới số 69/1993. 3. Nguyên Ngọc 1994, Truyện rất ngắn - tác phẩm nghệ thuật Lời giới thiệu tập 40 truyện ngắn chung khảo cuộc thi truyện thế giới mới, Nxb Hội nhà văn, H. 4. Lã Nguyên, "Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật", Tạp chí văn học, Số 2/1989. 5. Bùi Việt Thắng 2000, Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, H. 6. Hỏa Diệu Thuỳ, "Chặng khởi động trong hành trình truyện ngắn Việt Nam sau 1975", Tạp chí Văn học, Số 07/2011. 7. Hỏa Diệu Thúy, "Về một số khuynh hướng thể tài của truyện ngắn Việt Nam sau 1975", Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 6/ 2010. 8. Nguyễn Huy Thiệp 2003, Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn học. 9. Nguyễn Ngọc Tư 2005, Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.
Ngày đăng 04/04/2014, 0857 Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại 1 Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ truyện ngắn phát triển mạnh mẽ trong điều kiện chiến tranh. Tuy nhiên, hiện nay những công trình nghiên cứu về truyện ngắn cha nhiều, nhất là trên phơng diện thi pháp thể loại. Chọn nghiên cứu truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại, chúng tôi không cho đây là một cách tiếp cận toàn diện nhng phần nào mở ra một hớng nghiên cứu mới cho thể loại truyện ngắn thời kỳ này. 2. Lịch sử vấn đề. Tình hình nghiên cứu lý thuyết truyện ngắn. Đã có rất nhiều tài liệu bàn về khái niệm và đặc trng của truyện ngắn. Tiêu biểu có thể kể đến ý kiến của Gulaiép, Pospêlốp, Hà Minh Đức, Nguyễn Công Hoan, Vơng Trí Nhàn, Bùi Việt Thắng Những ý kiến về truyện ngắn ở các tài liệu nêu trên rất phong phú đa dạng, song về cơ bản có hai loại Nêu ra những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn, từ những vấn đề mang tính lý luận nh vai trò, khả năng, phạm vi khám phá, cách thức chiếm lĩnh đời sống đến những vấn đề cụ thể kết cấu, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, chi tiết. Trình bày kinh nghiệm viết truyện ngắn. Loại ý kiến này thờng là của các tác giả có nhiều thành công với truyện ngắn. Để minh họa cho những nhận xét khái quát về thể loại, họ trình bày lại quá trình viết các tác phẩm và từ đó rút ra kinh nghiệm, bài học sáng tác. Loại ý kiến này không trực tiếp phục vụ cho việc giải quyết đề tài, nhng ít nhiều cũng là những gợi ý cần thiết cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu các sáng tác cụ thể, phục vụ cho việc khái quát lý thuyết Tình hình nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975. Những công trình nghiên cứu về những vấn đề lý thuyết của truyện ngắn từ sau Cách mạng tháng Tám đến 1975. Những bài đánh giá chung về truyện ngắn cha nhiều. Điểm chung của các bài viết này là đều khẳng định truyện ngắn là một thể loại năng động, có khả năng thích ứng với cuộc sống thời chiến. Tuy nhiên, các dạng bài này, trong phạm vi của một bài viết, mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh hoặc những nhận xét có tính chất khái lợc. 2 Trong số những công trình nghiên cứu về truyện ngắn giai đoạn này, phải kể đến luận án Tiến sỹ của Phùng Ngọc Kiếm Con ngời trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Luận án đi sâu nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn giai đoạn này bộ phận văn học cách mạng. Trong đó tác giả đề cập tới một số các vấn đề thi pháp truyện ngắn nh cốt truyện, ngôn ngữ, nhân vậtnhằm lý giải sự chi phối của quan niệm nghệ thuật về con ngời đối với các phơng diện nghệ thuật. Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Khắc Sính Phong cách thời đại trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã tập trung khảo sát sự tác động, ảnh hởng của thời đại đối với truyện ngắn trên các phơng diện nh giá trị thẩm mỹ, chất trữ tình, chất hiện thực và quá trình vận động của các yếu tố này trong truyện ngắn 1945 - 1975. Các luận án trên ít nhiều đều có sự gặp gỡ với luận án của chúng tôi ở đối tợng nghiên cứu, xét trên phạm vi rộng là tác giả và tác phẩm. Tuy nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu theo hớng thi pháp thể loại, đi sâu khám phá truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này trên cơ sở đặc trng thể loại. Những bài nghiên cứu về tác giả. Loại bài nghiên cứu về một tác giả xuất hiện tơng đối nhiều, tập trung ở một số tác giả sáng tác đều đặn và bớc đầu định hình những nét riêng nh Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành, Vũ Thị Thờng, Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Giang Nam, Phan Tứ một số luận văn về Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về các tác giả khác nh Giang Nam, Phan Tứ, Nguyễn Thi, Nguyễn KhảiĐiểm chung của loạt bài này là các tác giả thờng cố gắng phát hiện ra những nét riêng của từng tác giả, tuy không nhiều. Loạt bài này đã giúp chúng tôi khá nhiều trong việc nghiên cứu các khuynh hớng của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1975. Những bài viết về từng tác phẩm. Loại bài này rất nhiều ở các các báo, tạp chí. Loạt bài này có tác dụng giúp chúng tôi tìm hiểu sự trởng thành của một tác giả trong sự phát triển của một thời kỳ nhất định. 3. Đối tợng và giới hạn nghiên cứu. Đối tợng khảo sát. Luận án chọn mốc thời gian từ 1945 đến 1975, vì đây là giai đoạn đất nớc có chiến tranh, văn học chịu sự chi phối của qui luật chiến tranh. 3 Tuy nhiên, truyện ngắn cha xuất hiện nhiều trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, luận án khảo sát chủ yếu là truyện ngắn từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp đến 1975 của những tác giả tiêu biểu, đã định hình về mặt phong cách. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Do đối tợng khảo sát tơng đối rộng, cộng thêm sự khó khăn khi tìm tài liệu, nhất là những truyện ngắn đợc ra đời ở các đô thị miền Nam thời bị tạm chiếm nên chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát ở bộ phận văn học Cách mạng. Luận án chỉ giới hạn ở những vấn đề mang tính đặc trng và đáng quan tâm hơn cả của truyện ngắn 1945 - 1975 nh cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ. Đó là những cấp độ quan trọng của cấu trúc truyện ngắn, đồng thời là nơi bộc lộ rõ những đặc trng của truyện ngắn phát triển trong điều kiện chiến tranh. 4. Phơng pháp nghiên cứu. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài "Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại", luận án sử dụng các phơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau phơng pháp loại hình, phơng pháp tiếp cận thi pháp học, phơng pháp so sánh và phơng pháp xã hội học. 5. Những đóng góp của luận án Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những ngời đi trớc, luận án cố gắng phác họa một mô hình chung nhất về thi pháp truyện ngắn 1945 - 1975. Qua đó hiểu đợc sự vận động và tiếp nối của thể loại truyện ngắn qua các giai đoạn. Góp phần nhìn lại một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của thể tài truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ 1945 - 1975 nhằm khẳng định những đóng góp của thể loại này đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. 6 Giới thuyết một số khái niệm 7. Cấu trúc của luận án. Luận án có 198 trang. Ngoài phần mở đầu 12 trang, phần kết luận 6 trang, phần tài liệu thamkhảo gồm 222 tài liệu 16 trang và phần phụ lục danh mục các tác phẩm đã khảo sát gồm 125 tác phẩm 6 trang., luận án đợc chia làm ba chơng 158 trang Chơng 1 Diện mạo chung của truyện ngắn 1945 - 1975; Chơng 2 Hai kiểu cấu trúc thể loại; Chơng 3 Kết cấu, các loại hình nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ 4 Chơng I Diện mạo chung của truyện ngắn 1945 - 1975 Đây là chơng chúng tôi trình bày hai vấn đề cơ bản của truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 I. Khả năng bao quát hiện thực rộng lớn. 1. Phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp. Những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, các nhà văn lớp trớc nh Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển cha thích nghi đợc với hoàn cảnh mới nên cha có nhiều sáng tác theo kịp những biến chuyển to lớn của thời đại. Chỉ có một số truyện ngắn của Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tởng nh Mò sâm banh, Địa ngục và Lò lửa, Vỡ tỉnh, Một phút yếu đuổi ít nhiều ghi lại đợc hình ảnh xã hội Việt Nam trong đêm trớc của cuộc cách mạng và khí thế sục sôi của dân tộc trong cuộc trở dạ vĩ đại của lịch sử. Bớc vào cuộc kháng chiến, truyện kí kháng chiến, tuy không nhiều, đã phản ánh khá trung thực cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trên các chiến trờng khác nhau, đồng thời nêu lên sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh nhân dân dới sự lãnh đạo của Đảng. Ngời nông dân kháng chiến và anh bộ đội cụ Hồ trở thành nhân vật trung tâm của nhiều truyện ngắn Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng, Làng, Vợ nhặt của Kim Lân, Đôi mắt của Nam Cao, Th nhà của Hồ Phơng, Voi đi của Siêu Hải, Con đờng sống của Minh Lộc, Tây đầu đỏ của Sơn Nam, Bên rừng Cù lao Dung của Phạm Anh Tài, Cây đớc Cà Mau của Đoàn Giỏi. 2. Phản ánh cuộc đấu tranh thống nhất đất n ớc. Sau 1954, hòa bình đợc lập lại trên miền Bắc. ở miền Nam, vẫn đang trong tình trạng nớc sôi lửa bỏng. Hoàn cảnh ấy đã gây nên sự nhức nhối trong tình cảm của nhân dân hai miền Nam Bắc và sâu hơn là niềm mong mỏi thiết tha thống nhất nớc nhà. Tâm t, nguyện vọng ấy đã đợc nhiều nhà văn quan tâm và tạo thành cảm hứng chủ đạo cho mạch truyện viết về miền Nam, về cuộc đấu tranh thống nhất nớc nhà Cây đàn miền Bắc - Phạm Anh Tài, Lá cờ mình - Nguyễn Văn Tâm, Em bé - Hoàng Minh Châu, Hai em bé miền Nam - Hoài Vũ, Trung thành - Nguyễn Thành Long Trong hoàn cảnh đó, những sáng tác mang màu sắc bi quan, buồn nản đã xuất hiện Về nhà- Nguyễn Thành Long; Im lặng - Nguyễn Ngọc Tấn, Vết thơng - Hải Hồ, Đứa con - Nguyên Ngọc, Sau hai chiến dịch - Minh 5 Giang, Theo thời gian, thứ tâm trạng buồn yếu, bi quan đó ngày càng bớt đi, thay vào đó là những sáng tác lành mạnh, trong trẻo hớng về miêu tả hành động, việc làm của những con ngời miền Nam trên đất Bắc. Đáng chú ý là hai tập truyện Trăng sáng và Đôi bạn của Nguyễn Ngọc Tấn. 3. Phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa x hội. Về cuộc cách mạng dân chủ. Song song với đề tài đấu tranh thống nhất nớc nhà, truyện ngắn miền Bắc cũng cố gắng bám sát dòng chảy của lịch sử với những sự kiện trung tâm của thời đại nh Cải cách ruộng đất, xây dựng chủ nghĩa xã hội Tiếng hát trên đỉnh Hoa Sơn - Mộng Lục, Lớp học vùng cao - Trịnh Ngọc Khu, Ngời chú dợng - Kim Lân, Lấy nớc ao trời - Huy Phơng, Thôn Kim đoàn kết làm chiêm - Đăng Tiến. Nhiều truyện đi sâu khai thác cuộc đời của những nhân vật vốn là nạn nhân của quan hệ sản xuất cũ nay nhờ cách mạng mà đã tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, giá trị cuộc sống của mình Cây mít - Nguyễn Công Hoan, Ngời vợ lẽ - Đỗ Quang Tiến, Ông lão chăn bò trên núi Thắm - Xuân Thu, Đờng cày trên đám ruộng - Đặng Hữu Phát, Ma đêm - Vũ Giang, Nên vợ nên chồng - Kim Lân, Hai cha con - Nguyễn Địch Dũng. Nhìn chung, truyện ngắn thời kỳ này đã phản ánh đợc hiện thực bề bộn, phức tạp hơn so với kháng chiến chống Pháp. Nhng nhân vật còn đơn giản, cha sinh động, nhiều khi thiếu chân thực. Do đó những tác phẩm thành công về cuộc Cách mạng dân chủ cha có nhiều và cũng cha đủ sức v ợt qua thử thách của thời gian. Về cuộc cách mạng x hội chủ nghĩa Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng làm thay đổi nhiều mặt toàn bộ xã hội. Tất cả những thay đổi đó hiện lên khá rõ trên nhiều truyện ngắn tiêu biểu trong các tập Hai vợ, Trai làng Quyền Nguyễn Địch Dũng, Mùa lạc Nguyễn Khải, ánh sáng bên hàng xóm Chu Văn, Quê hơng Vũ Tú Nam, Gánh vác Vũ Thị Thờng, Đồng tháng năm, Vụ mùa cha gặt Nguyễn Kiên Càng về sau, truyện ngắn càng phản ánh hiện thực phong phú và có chiều sâu hơn. Một số truyện ngắn của Vũ Thị Thờng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Địch Dũng Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, Cái lạt, Anh Keng, Nhà chị Nhỡ đi sâu vào nghiên cứu, tái hiện cuộc đấu tranh trong nội bộ nhân dân, nhằm làm cho đội ngũ trong sạnh, vững mạnh hơn. Điều đó chứng tỏ, các tác giả đã hiểu rõ hơn về ngời nông dân tập thể và không chỉ dừng lại ở mức độ minh họa cho chủ trơng chính sách. Nhìn chung, mỗi ngời viết trong khả năng của mình 6 đều cố gắng dựng lại những đổi mới cơ bản ở nông thôn, nhằm khẳng định bớc tiến của cách mạng, của nông thôn trên con đờng xây dựng chủ nghĩa xã hội. 4. Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc Sau những thất bại nặng nề ở miền Nam, ngày 5/ 8/ 1964 Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Cả nớc bớc vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc. Trong tình hình ấy, nhiều nhà văn lên đờng trở về quê hơng nh Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành Và họ đã có những sáng tác kịp thời về cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Con chị Lộc - Anh Đức, Quán rợu ngời câm - Nguyễn Quang Sáng, Ngời tị nạn - Vĩnh Hòa, Về làng của Phan Tứ, Vở kịch cô giáo của Giang Nam, Chiếc guốc xinh xinh của Thủy Thủ. Đặc biệt, cuộc đối đầu trực tiếp của nhân dân miền Nam với kẻ thù để giữ ruộng đất đợc nhiều tác giả quan tâm Giữa vòng vây - Trúc Hà, Mùa gió, Đất - Anh Đức, Lửa đêm - Phan Tứ, Chuyện bên bờ sông Vàm cỏ - Lê Văn Thảo, Về làng - Phan Tứ. Có thể nói, truyện ngắn miền Nam đã phản ánh kịp thời, chân thực về hiện thực cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nó đã tái hiện lại đợc nhiều kiểu ngời tích cực, nhiều hiện thực đau thơng nhng rất hào hùng của miền Nam trong chiến tranh. ở miền Bắc, đề tài đấu tranh chống Mỹ đợc thể hiện với sắc thái khác vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội Những vùng trời khác nhau - Nguyễn Minh Châu, Quán bên đờng - Nguyễn Thị Ngọc Tú, Ngời cầm súng - Lê Lựu, Mùi thơm dây cháy chậm - Cao Tiến Lê. Chân dung con ngời Việt Nam trong truyện ngắn chống Mỹ đã dần đợc triển khai qua nhiều bối cảnh, dáng vẻ. Nhng cũng phải nhận thấy rằng, ở buổi đầu, sự đúc kết cuộc sống vào các chân dung, các điển hình cha phải đã tốt. Không ít nhân vật còn rất mờ nhạt và thờng là hao hao giống nhau. II. Một giai đoạn chủ yếu đợc sáng tác theo cảm hứng lãng mạn và khuynh hớng sử thi. 1. Cảm hứng lng mạn. Con ngời lạc quan. Trong truyện ngắn, cảm hứng lãng mạn đợc thể hiện trớc hết ở việc xây dựng nhân vật. Để thể hiện bản lĩnh, niềm lạc quan của con ngời Việt Nam trong chiến đấu, truyện thờng xoay quanh tình huống cơ bản một bên là ta ngời cán bộ, chiến sỹ, nhân dân ở trong tình thế bất lợi và bên kia là kẻ địch hung bạo, tàn ác, đợc trang bị vũ khí hiện đại. Nhng bằng 7 ý chí, niềm tin, nghị lực bao giờ ta cũng là ngời chiến thắng Rừng xà nu, Đất, Giấc mơ ông lão vờn chim, Chuyện bên bờ sông Vàm cỏ, Gieo mầm, Mầm sống, Niềm vui thầm lặng, Chân trời tím, Những đứa con trong gia đình, Lửa đêm Trong các truyện về đề tài sản xuất, xây dựng cuộc sống mới thiên nhiên khắc nghiệt và cả các lề thói, định kiến luôn là những cản trở đối với con ngời. Trong hoàn cảnh ấy, con ngời buộc phải có nghị lực, quyết tâm để có thể vợt qua Ché Mèn đợc đi họp - Nông Minh Châu, Ngời vợ - Nguyễn Địch Dũng, Xa Phủ - Ma Văn Kháng, Hạnh phúc - Vũ Thị Thờng, Màu tím hoa mua - Nguyễn Thị Nh Trang, Đêm trong làng - Nguyễn Thị Ngọc Tú Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đều nhằm ca ngợi tinh thần lạc quan của con ngời trớc các thử thách của hoàn cảnh. Xu hớng lý tởng hóa hoàn cảnh sống của nhân vật Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ số phận cộng đồng đợc đặt lên hàng đầu. Ngời với ngời sống với nhau trong tình chan hòa, thân ái. Do đó, con ngời tiến bộ hay lạc hậu hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân họ, còn môi trờng luôn luôn tốt. Nhiều truyện đã đề cập đến sự đổi đời của những con ngời từng là nạn nhân trong xã hội cũ nay tìm lại đợc niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống mới Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ng ời vợ lẽ - Đỗ Quang Tiến, Bộ quần áo mới - Ngô Ngọc Bội, Hoa đào năm ngoái - Chu Văn, Ma đêm - Vũ Giang, Gặp bạn, Trai làng Quyền - Nguyễn Địch Dũng, Hai chị em - Vũ Thị Thờng, Mùa lạc, Đứa con nuôi - Nguyễn Khải, Lẽ mọn - Nguyễn Thị Cẩm Thạch, Tiếng sóng khuya - Nguyễn Kiên. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nớc ngày càng sôi nổi, thu hút sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều truyện ngắn đã xây dựng những kiểu nhân vật tự nhận thức để tiến kịp phong trào nh nhân vật cô giáo Vở kịch cô giáo - Giang Nam, ông Sần Về làng - Phan Tứ, Ngời đàn bà Tháp Mời trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Quang Sáng. Điều này chứng tỏ sức cảm hóa kỳ diệu của cách mạng, của hoàn cảnh đối với con ngời. 2. Khuynh hớng sử thi Đề tài Theo nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì "Tính chất sử thi của nền văn học mới Việt Nam thể hiện trớc hết ở chỗ nó lấy đối tợng miêu tả chủ yếu là cuộc đấu tranh của dân tộc nhằm thoát khỏi mọi ách ngoại xâm nó ca ngợi sự nghiệp dựng nớc và giữ nớc của toàn dân trong hiện tại và 8 quá khứ, ngợi ca xả thân vì dân tộc, đất nớc của những ngời con u tú của dân tộc 10, 120. Truyện ngắn cũng không phải là ngoại lệ. Nhân vật Nhân vật là phơng diện thể hiện rõ sự chi phối của khuynh hớng sử thi vào truyện ngắn. Nhìn chung, truyện ngắn thời kỳ này tập trung vào hai kiểu nhân vật những con ngời mang t tởng, khát vọng của thời đại và những con ngời kết tinh bản lĩnh, khí phách của dân tộc, thời đại ở loại thứ nhất, đời sống riêng của cá nhân đợc thể hiện nh đời sống chung của dân tộc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng hành xử với t cách một công dân, một chiến sỹ nh Thân Cái hom giỏ, hai chị em Chiến và Việt Những đứa con trong gia đình, ông T vờn chim Giấc mơ ông lão vờn chim, anh Khang, chị Tiềm Mùa cá bột, Tâm Nếm nớc Tất cả họ đều tự nhận thức đợc về trách nhiệm của mình đối với đất nớc, luôn coi lý tởng cách mạng là nguồn vui, lẽ sống. Kiểu ngời thứ hai đợc xây dựng để phản ánh bớc đờng đi lên của lịch sử, dân tộc ông Hai - Làng, Mỵ và A Phủ - Vợ chồng A Phủ, Độ - Đôi mắt, Lợng - Th nhà , Miên - Gặp gỡ, ông Tám Xẻo Đớc - Đất, chị út - Mẹ vắng nhà; cụ Mết - Rừng xà nu Chơng II hai kiểu cấu trúc thể loại Truyện ngắn trữ tình. Phơng thức tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực. Với một lối tiếp cận và cảm nhận u ái, nâng niu, các cây bút thuộc khuynh hớng này không đi vào khai thác những xung đột xã hội gay gắt mà nghiêng về khai thác vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nớc và nhất là vẻ đẹp tâm hồn con ngời. Vì vậy, nó thờng nắm bắt đợc cái hồn, cái thần thái của hiện thực hơn là tái hiện hiện thực dới hình thức trực tiếp. Cốt truyện với chức năng bộc lộ trạng thái, tâm tởng Truyện ngắn trữ tình là truyện về thế giới đời sống đã đợc khúc xạ qua lăng kính tâm hồn của tác giả, là truyện về niềm vui, nỗi buồn của con ngời trớc cuộc sống. Nói cách khác, những chi tiết, sự kiện, biến cố chỉ là cái nền, cái cớ để nhân vật phô diễn thế giới nội tâm phong phú của mình. Thung lũng cò, Đờng qua nhà, Tiếng ma . 9 Để những truyện "không có chuyện" có thể "đứng" đợc, không rơi vào tình trạng chết yểu, vô vị nhà văn phải tạo ra một "không khí" quán xuyến toàn bộ truyện, một "môi trờng sống" cho nhân vật bằng cách đa vào trong truyện những chi tiết chân thực, chính xác, đáp ứng yêu cầu "phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống". Do quan niệm "cốt truyện không thành vấn đề lắm", các cây bút trữ tình ít chú ý tới những sự kiện, biến cố khách quan mà chủ yếu quan tâm tới những biến cố bên trong, những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật. Nhân vật trữ tình Nhân vật trữ tình là kiểu nhân vật có thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trớc những biến chuyển của đời sống. Đỗ Chu, Nguyễn Thị Nh Trang, Nguyễn Thành Long, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu có sở trờng xây dựng loại nhân vật này. Hành động không còn là cốt lõi của nhân vật. Nhân vật không đợc miêu tả qua ngoại hình, hành động mà chủ yếu xuất hiện qua tâm trạng và miêu tả tâm trạng cũng không nhằm cắt nghĩa, lý giải cho hành động Nhân vật trữ tình, trớc hết, là những con ngời rất tinh tế và nhạy cảm trong cảm nhận cuộc sống, con ngời. Để có đợc những cảm nhận đó, họ phải là những con ngời có một tình yêu mặn mà, tha thiết với cuộc sống quanh mình. "Nặng yêu thơng, tâm sự, hồi tởng" cũng là một đặc điểm của nhân vật trữ tình. Họ không phải là những ngời không có gì để nhớ, càng không phải là những ngời mau quên hoặc cố tình quên những gì đã qua mà là những con ngời nặng tình nặng nghĩa, có thủy có chung. Không chỉ sống với thế giới hiện tại, họ còn có cả một ký ức tuổi thơ phong phú để đi về sau những truân chuyên của cuộc đời. Tình huống truyện Đối với truyện ngắn trữ tình, tình huống truyện không nhằm thúc đẩy hành động của nhân vật cũng nh khái quát các mâu thuẫn của đời sống mà chỉ đóng vai trò khơi nguồn, châm ngòi cho việc lý giải nguyên cớ, nguồn cơn của những tâm trạng, những biến thái tinh thần của nhân vật. Chúng tôi chia các tình huống ở truyện ngắn trữ tình thành ba dạng Tình huống tự nhận thức Đây là dạng tình huống cho loại truyện viết về đời thờng, gắn với khả năng tự nhận thức, tự soi xét chính mình của nhân vật. Qua những tình huống nh vậy, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về đời sống, xã hội, 10 con ngời Lao động quang vinh, Làm việc - Nguyễn Ngọc Tấn; Chiến sỹ quân bu, Vòm trời quen thuộc - Đỗ Chu; Con chim bã trầu - Nguyễn Thành Long; Tình huống hồi cố Là tình huống đặt nhân vật sống lại những hồi ức, những kỷ niệm, những hồi cố về quá vãng, tìm về ngày xa với một sự trân trọng, tạo thành kiểu tình huống chất đầy tâm trạng và giàu sức gợi Quê hơng, Về Nam - Nguyễn Ngọc Tấn; Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng, Rẻo cao - Nguyên Ngọc; Hơng cỏ mật, Ráng đỏ - Đỗ Chu; Kí ức tuổi thơ - Anh Đức; Tiếng ma, Con đờng và dòng sông - Nguyễn Thị Nh Trang;. Tình huống khơi mở tâm lý. Truyện ngắn trữ tình thờng chú ý đến những khoảnh khắc bất ngờ, ngắn ngủi, thâu thái đợc những xung động tâm lý căng, nhạy có khả năng khơi mở, đánh động những rung động khẽ khàng, tinh tế ở bên trong. Nó là tiêu điểm thu gọn để làm nảy sinh cảm xúc, cảm giác. Chính vì thế, tình huống khơi mở tâm lý là tình huống tiêu biểu nhất của truyện ngắn trữ tình, giàu tiềm năng khơi mở cõi lòng bí ẩn của con ngời Mùa cá bột, Phù sa, Trong tầm súng - Đỗ Chu; Lặng lẽ Sa Pa, Giữa trong xanh, Buổi sáng thần tiên - Nguyễn Thành Long; Chuyện ở đảo, Con đờng và dòng sông - Nguyễn Thị Nh Trang;. Nghệ thuật trần thuật Trần thuật từ ngôi thứ nhất Là kiểu trần thuật phổ biến trong truyện trữ tình. Hình thức ngời kể chuyện từ ngôi thứ nhất tạo tiền đề cho quyền tự bộc lộ của ng ời viết, phát huy một cách tối đa vai trò và sự hiện diện của mình trong văn bản nghệ thuật. Đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa ngời kể chuyện và nhân vật, tạo độ tin cậy cho tác phẩm. Kiểu trần thuật này cho phép đa vào lời trần thuật quan điểm riêng, sắc thái cá tính mang đậm màu sắc chủ quan, tăng cờng chất trữ tình cho câu chuyện Tiếng ma - Nguyễn Thị Nh Trang, Ký ức tuổi thơ - Anh Đức, Mùa nấm tràm - Đinh Quang Nhã Nhịp điệu trần thuật chậm ri, khoan thai Cơ sở để tạo nên nhịp điệu trần thuật ấy chính là do đặc trng thể loại quy định. Hầu hết truyện ngắn trữ tình đều rất ít sự kiện. Những sự kiện, biến cố ít ỏi này không đợc phát triển để trở thành biến cố mà thờng bị kéo dãn ra, mờ nhạt dần theo dòng tâm trạng của nhân vật. Đó là nguyên [...]... những nét cá tính không thể trộn lẫn với bất cứ nhân vật nào khác Đó là văn sỹ Hoàng ôi mắt - Nam Cao, Đào Mùa lạc - Nguyễn Khải, ông Tám Xẻo Đớc ất - Anh Đức, bác 18 Tám Sành Lửa đêm - Phan T , Cụ Mết Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, ông Năm Hạng ng Năm Hạng- Nguyễn Quang Sáng, hai chị em Chiến và Việt Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi Để xây dựng loại nhân vật này, các tác... phải phục tùng tập thể Trong hoàn cảnh ấy, kiểu nhân vật hết lòng lo toan những công việc chung, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nh Năm Gia đình lớn - Nguyễn Khải; Thân Cái hom gi , Thơm Cái đĩ con, Bí th Vợi Một ngày, chủ nhiệm Chẩn Neo đơn, bác Mục Ngày xuân, Chủ tịch Bình êm mùa thu, cụ T Gấc, anh Khang, chị Tiềm Mùa cá bột, đội trởng Nham Phù sa xuất hiện nhiều Có thể nói, lớp ngời... hình thức của thời đại" 1 29, 36 2 Có thể xem một hình thức thời đại của giai đoạn 1945 - 1975 chính là truyện ngắn Trong xu thế chung của thời đại, với tất cả những u điểm thể loại, truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 đã phát triển về nhiều mặt, phù hợp với điều kiện chiến tranh Sự phát triển của truyện ngắn không chỉ đợc khẳng định qua những thành tựu sáng tác của cá nhân, mà còn thể hiện rõ ở sự biến... diện mạo, bản chất của truyện ngắn đã có nhiều thay đổi Truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 không chỉ kế thừa những thành tựu của truyện ngắn những giai đoạn trớc mà còn là sản phẩm riêng của thời đại đấu tranh cách mạng Sự phát triển của truyện ngắn giai đoạn này chứng tỏ xu hớng của cả một thể loại đang tìm cách vận động để đáp ứng cao nhất yêu cầu của thực tiễn lúc đó là cổ vũ, động viên, tuyên truyền... những nguyên tắc thể loại, những phơng tiện và phơng thức nhận thức cuộc sống Chính những thay đổi này đã tạo cho truyện ngắn 1945 - 1975 một diện mạo riêng, mang dấu ấn của thời đại Có nhiều cách để tìm hiểu truyện ngắn mà mỗi cách đều chỉ ra những bình diện khác nhau cho việc khảo sát loại hình Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung khảo sát truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại để thấy qua... tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, truyện ngắn lại đề cập đến một kiểu ngời mới ở nông thôn miền Bắc Qua đó, các tác giả phản ánh sự vận động và khí thế chung dân tộc, thời đại nh Mỵ Vợ chồng A Ph , chị Nhâm Chị Nhâm, Đoan Ngời v , bà cụ Thuận Buổi tối trong gia đình, lão Học Con trâu bạc, Chủ tịch Bình êm mùa thu, chủ nhiệm Chẩn Neo đơn Nhân vật loại hình kết hợp với nhân vật tính... biệt, truyện ngắn một mặt kế thừa và phát huy những thành tựu của những giai đoạn trớc, mặt khác cũng đã tạo nên những đặc điểm thi pháp riêng của thể loại trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định Luận án tập trung khảo sát ba vấn đề thuộc về thi pháp thể loại Đó là kết cấu, các kiểu loại nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ Qua sự khảo sát, phân tích chúng tôi nhận thấy những đặc điểm thi pháp thể loại truyện. .. sống, con ngời Loại tình huống này xuất hiện chủ yếu trong loại truyện thông qua số phận của một cá nhân cụ thể để ca ngợi tính u việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đối với con ngời Vợ nhặt - Kim Lân, Anh Keng Nguyễn Kiên, Nhà chị Nhỡ, Trai làng quyền - Nguyễn Địch Dũng, Bộ quần áo mới - Ngô Ngọc Bội thuật trần thuật Trần thuật khách quan Khảo sát truyện ngắn hiện thực 1945 - 1975, chúng tôi... ngời công dân Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ đất nớc có chiến tranh Lợi ích cộng đồng trở thành nguyên tắc hàng đầu Do đó, xét trên đại thể, có thể thấy quan niệm nghệ thuật về con ngời của truyện ngắn 30 năm chiến tranh cách mạng là con ngời chính trị, con ngời công dân, con ngời hớng về cách mạng Con ngời cộng đồng trong truyện ngắn 1945 - 1954 Khám phá con ngời từ phơng diện xã hội, từ trách nhiệm... thể của một xã hội tốt đẹp cũng là một hớng khẳng định sự hoà nhập riêng chung của con ngời trong truyện ngắn lúc này Nhiều truyện ngắn đi theo hớng này đã thể hiện đợc khát vọng hạnh phúc của con ngời, nhất là những con ngời từng chịu nhiều đau khổ, thi t thòi ờng cày trên đám ruộng, Chị Nhâm, Bộ quần áo mới, Hoa đào năm ngoái, gặp bạn, Trai làng Quyền Con ngời sử thi trong truyện ngắn 1965 - 1975 . 4. Phơng pháp nghiên cứu. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài " ;Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại ", luận án sử dụng các phơng pháp nghiên. trung khảo sát truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại để thấy qua các thời kỳ lịch sử diện mạo, bản chất của truyện ngắn đã có nhiều thay đổi. Truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 không chỉ kế. Hoàng ôi mắt - Nam Cao, Đào Mùa lạc - Nguyễn Khải, ông Tám Xẻo Đớc ất - Anh Đức, bác 19 Tám Sành Lửa đêm - Phan T , Cụ Mết Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, ông Năm Hạng ng Năm - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại , Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại ,
Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng , sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. 125 trang Chia sẻ lylyngoc Lượt xem 4983 Lượt tải 6 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênng cảnh ngộ, những bi kịch riêng thì đã hình thành rõ nét. Đó là số phận của người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy đã từng là con một nhà khá giả, nhưng vì xấu nên không có ai lấy. Sau đó chị có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá và bắt đầu cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Cuộc sống dưới thuyền không xuôn xẻ gì lại thêm một lũ con nheo nhóc khiến anh chồng từ một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập vợ con trở thành một kẻ vũ phu. Bi kịch của đàn bà ở chỗ cứ ba ngày bị chồng đánh một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà chị ta một mực khăng khăng xin quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó[11/342]. Tại sao một người bị chồng đánh một cách tàn nhẫn lại không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy? Vì sao chị ta thà hàng ngày chịu đòn của chồng chứ nhất định không li dị hắn? Thì ra, ngã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của người đàn bà làng chài, nhất là những khi biển động. Hơn thế chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu chỉ sống cho riêng mình, chị còn phải sống vì chúng nữa. Mặt khác cuộc sống trên thuyền cũng có lúc bình yên, vợ chồng con cái sống vui vẻ, thuận hoà. Dường như trong hoàn cảnh này, cách hành xử của người đàn bà này là không thể khác. Giải pháp bỏ chồng mà ông chánh án đưa ra cho trường hợp của chị là không khả thi. Bởi hơn ai hết người đàn bà ấy hiểu rằng chị đau đớn về thân thể nhưng không thể oán giận chồng. Số phận của anh ta cũng nghiệt ngã chẳng kém gì chị. Anh ta đáng bị lên án bởi sự vũ phu và bởi tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn những bực bội trong lòng. Nhưng anh ta cũng đáng nhận được sự cảm thông bởi gánh nặng gia đình. Xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. ở đây Nguyễn Minh Châu nhìn nhận số phận của con người trong cuộc sống không đơn giản mà đa diện, nhiều chiều. Bởi thế người nghệ sĩ bao giờ cũng nhìn thấy đằng sau cái màu hồng của ánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 sương mai trong bức ảnh còn là hình ảnh người đàn bà làng chài bước ra khỏi tranh. Chị là hiện thân của những lam lũ khốn khó đời thường nhưng cũng tiềm ẩn trong đó những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Số phận của chú bé Kiểm Kiểm - chú bé- con người của Ma Văn Kháng lại khiến người đọc không khỏi day dứt. Bố mẹ bỏ nhau, Kiểm ở với bố, mẹ kế và hai đứa em cùng cha khác mẹ. Trên thân thể em thường hằn lên những dấu vết của những trận đòn và sự hành hạ từ bà mẹ kế. Bà dì vốn cưng chiều con mình, để thoả mãn tình thương ấy bà phải hành hạ, trút cái vất vả khổ cực lên đầu em. Thậm chí cả hai đứa trẻ cũng sớm bị ảnh hưởng cái thói cay nghiệt, cái đặc quyền được đày đoạ con chồng nên đành hanh, nhiều khi quái ác đổ tội lên thằng anh để nó lại phải hứng chịu đòn oan. Một đứa trẻ không may rơi vào cảnh ngộ éo le này, rất dễ trở nên cằn cỗi, thui chột hết cái mầm nhân bản, hết khả năng yêu thương, thậm chí là lạnh lùng, nhẫn tâm với đồng loại. Nhưng Kiểm không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi dập và dồn vào cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm thì em vãn còn giữ được một khoảng cách, chưa đồng hoá với cái xấu. Em yêu thương và chăm sóc chu đáo cho hai đứa em cùng cha khác mẹ với tư cách là một người anh. Em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với những người nghèo khó. Khi người mẹ kế lâm bệnh, em đã tự nguyện trở về với một tình yêu vừa non tơ vừa quảng đại và quả cảm. Bởi em nghĩ suốt đời làm người khác khổ thì mình có sung sướng gì đâu. Kiểm là hệ quả của số phận rắc rối giao tiếp qua nhau, là hệ quả những va đập dưới áp lực của những quan niệm đạo đức và dục vọng khác nhau. Sự mưu cầu lợi ích vị kỷ, sức thôi thúc của dạ dầy và trái tim, lầm lỡ cả những tái tạo hồi sinh đã đảo lộn cơ tầng đời sống… làm nảy sinh những đứa trẻ bơ vơ, mất nơi nương tựa và bẽ bàng[31/84]. Nhân vật Dì Út trong truyện ngắn cùng tên của Thanh Quế cũng là một số phận mang đầy tính bi kịch. Đó là người phụ nữ phải chịu cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần. Sau khi tiễn chồng đi tập kết ở Miền Bắc, người phụ nữ này thường xuyên bị bọn Mỹ nguỵ bắt đi tù, đánh đạp tra khảo luôn. Đau đớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 hơn cả là đứa con gái duy nhất cũng chết vì bệnh trong lúc chị đang ở tù. Sau ngày miền Nam giải phóng, chị vẫn nuôi mẹ chồng và chờ chồng nhưng chồng chị thì không một lần trở lại. Hoá ra anh ta giờ đã là một quan chức, lại sắp đi làm tuỳ viên kinh tế ở nước ngoài. Để leo lên được địa vị đó, anh ta sẵn sàng bịa ra một cái thư giả của một người đã chết vu oan, bêu xấu vợ để lừa tổ chức. Khi vợ biết chuyện, anh ta một mặt đổ thừa cho hoàn cảnh, mặt khác quỳ xuống van vỉ chị bỏ qua. Những người thân muốn chị vạch mặt kẻ bội bạc dối trá kia nhưng chị giữ im lặng. Nếu làm như thế liệu vết thương lòng của chị có thể nguôi ngoai hay chị sẽ chỉ nhận được nhiều ánh mắt cảm thương hơn của người khác? Sự im lặng ấy là biểu hiện cuả lòng bao dung hay sự chấp nhận thực tại phũ phàng? Số phận của con người đã đi qua chiến tranh không chỉ có vầng hào quang mà còn có cả những đau thương mất mát. Khi viết về cái đa đoan của con người trong cuộc sống, truyện ngắn sau 1975 cũng xuất hiện kiểu nhân vật cô đơn. Trong những năm chiến tranh không có con người cô đơn mà chỉ có con người tập thể, con người quần chúng. Xung quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc… con người không có điều kiện để soi ngắm tâm hồn mình. Sau 1975, với quan niệm con người cá thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì kiểu nhân vật cô đơn không phải là hiếm. Hơn nữa ở giai đoạn giao thời trong bề bộn cuộc sống thì thật - giả, trắng - đen, tốt -xấu không phải lúc nào cũng minh bạch như hồi chiến tranh. Con người có lúc hoang mang trước nhiều lựa chọn. Vì thế con người cô đơn trở thành một điểm xoáy thu hút nhiều tác giả truyện ngắn. Bằng nhiều cách, mỗi nhà văn đã đi vào khám phá các phương diện khác của sự cô đơn. Nguyễn Minh Châu đi vào nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh với một khoảng trống trong tâm hồn không gì bù đắp nổi Quỳ- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Dương Thu Hương lại xây dựng một kiểu nhân vật cô đơn đi tìm kiếm hạnh phúc, thứ hạnh phúc không thể với được trong tầm tay Ngân- Những bông bần li. Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng thì tìm cách thì chạy trốn quá khứ ông Thiềng- Ngày đẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 trời. Còn Nghĩa Căn nhà ở phố- Nam Ninh lại cô đơn lạc lõng ngay chính gia đình của mình. Đến nỗi anh phải tạo ra một kịch bản giả viết thư cho chính mình để tìm một cái cớ hợp lý cho việc rời khỏi gia đình. Nhiều nhân vật cô đơn trong truyện ngắn sau 1975 là những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Họ không dễ dàng hoà nhập với những thay đổi trong cuộc sống hoà bình. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện những nhân vật cô đơn về trạng thái tâm hồn. Đó là sản phẩm của những va đập trong cuộc sống đời thường, trong những quan niệm đạo đức nhân sinh trong cách ứng xử như nhân vật Đính trong Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân. Anh là một con người có tài năng và trách nhiệm cao trong công việc. Anh luôn tìm ra một phương án tối ưu để sửa chữa cho những dự án sai lầm. Đó là một công việc rất hữu ích nhưng không phải lúc nào cũng được mọi người ủng hộ. Người cho rằng anh đang chống lại tập thể, người lại tưởng anh đang tranh chấp quyền lực, đến người anh yêu cũng không dám ra mặt ủng hộ anh. Vì thế, cuộc sống của anh luôn vấp phải rất nhiều những hiểu lầm, những lời chỉ trích gay gắt và suốt cuộc đời anh đã luôn phải đấu tranh cho chân lý trong cô đơn. Như vậy, cô đơn thực chất là chuyện của những số phận, những con người cá nhân nhưng nó không phải là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Đi vào từng mảnh đời cô độc là những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Thể hiện con người cô đơn chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn sau 1975 để góp phần giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những tình cảm sâu kín thuộc về vấn đề con người. ở mỗi truyện ngắn sau chiến tranh là từng cá thể, từng mảnh đời thầm lặng hay sôi động. Chân dung và số phận con người đã được thể hiện khá sinh động sâu sắc, đa chiều. Đi sâu vào tâm hồn con người, nhà văn thấy được ở mỗi số phận ấy từng niềm vui, nỗi buồn hay sự đau khổ, khao khát, đam mê. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Có ý kiến cho rằng truyện ngắn sống bằng nhân vật và nó bộc lộ đầy đủ những đặc tính của thể loại, mở ra cho văn học những đề tài, những vấn đề mới của đời sống bằng những hình tượng văn học. Nếu truyện ngắn 1945- 1975 thể hiện quan niệm con người tập thể, con người quần chúng nên nhân vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến cố lịch sử thì truyện ngắn sau 1975, trở về con người cá nhân. Nhân vật thường được thể hiện qua các mối quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn, phức tạp. Với xu hướng khám phá, thể hiện con người mới mẻ như vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 đã hình thành một số kiểu nhân vật mới. Cách biểu hiện nhân vật cũng đang có những chuyển biến mới. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh xây dựng con người quần chúng, con người hiện thân cho ý chí cách mạng. Đó là những con người cầm súng và quyết thắng lấn át con người bình thường, con người tinh thần, ý chí nổi lên trên con người vật chất, con người vì nghĩa lớn lấn át con người riêng tư[81/428].Việc đi sâu khai thác tâm lí con người chưa được coi là một thao tác bình thường trong văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khi văn học trở về với con người cá nhân, con người trong cuộc sống đời thường thì việc miêu tả tâm lí con người lại như một lợi thế của văn xuôi nói chung. Bởi lẽ khi các tác giả tập trung sự chú ý vào quá trình hình thành cá tính, tính cách của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng cường yếu tố phân tích tâm lí và khắc họa cá tính nhân vật. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 có thể nhận thấy, các nhà văn đã khá nhạy bén trong việc miêu tả tâm lí, cá tính, tư tưởng của con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự miêu tả những xung đột nội tâm, những rung động trong cảm xúc, những biến đổi trong tâm lí nhân vật chứ chưa hoàn toàn nắm bắt trọn vẹn một quá trình tâm lí, tư tưởng để xây dựng những hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Trong khi miêu tả tâm lí nhân vật, các tác giả thường để cho nhân vật tự ý thức về bản thân mình trong những mối quan hệ với xung quanh, tự mình bộc lộ với chính mình những suy nghĩ và cảm xúc chân thực nhất. ở đó thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu để nhân vật tự bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân. Những tiếng nói từ bên trong, những lời tự vấn của người họa sĩ trong Bức tranh Nguyễn Minh Châu chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tính cách của anh ta. Lúc đầu, khi phát hiện ra lỗi lầm do sự thất hứa của mình, anh ta đã day dứt Tại sao ngày ấy tôi đã không dưa tấm ảnh đén cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?[11/126]. Rồi chính anh lại tự biện minh cho việc làm của mình Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là anh thợ vẽ truyền thần, công việc của người nghệ sĩ là phải phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người[11/127]. Những lời tư biện này chứng tỏ anh ta chưa thấy được hết cái nguy hiểm của thói quen lấy lợi ích cộng đồng làm bình phong che chắn cho hành vi thất hứa của mình. Vì thế, xung đột nội tâm của nhân vật chưa dừng lại ở đó mà được đẩy cao hơn trong cuộc đối thoại tưởng tượng với người thợ cắt tóc. Đó là một thứ trảm hình trong lòng nhân vật để anh ta nhận ra cái bộ mặt thật của mình vừa được lột ra khỏi cái mặt nạ hàng ngày. Truyện ngắn này lôi cuốn người đọc bởi cách xoáy sâu vào tâm lí nhân vật và nghệ thuật tạo căng thẳng dần, siết chặt dần từ cảm giác ân hận bị dìm xuống đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn không dứt mãi không thôi trong lòng nhân vật. ở đây, tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đi đến tận cùng sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó. ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu tỏ ra là cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lí khá phức tạp của một tâm hồn không đơn giản như Quỳ. Nhà văn chọn cho câu chuyện của mình bằng dạng thức tự kể của nhân vật chính. Đó là những lời kể chân thành như lời tự thú của Quỳ. Rồi cứ thế cả thiên truyện dần dần hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 ra cùng vói việc khám phá phần cốt lõi khó khăn phức tạp đầy biến động nhất của nội tâm, đó là các cuộc tình của Quỳ. Đúng là để xây dựng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu đẫ phải huy động một khối lượng đậm đặc những chi tiết, những chi tiết buộc phải có nhiều kinh lịch trên đường viết văn, một quan sát tinh tế lắm, một vốn hiểu biết về nhân vật sâu sắc mói có thể có được[81/311]. Mỗi nhà văn trong từng truyện ngắn của mình có những khám phá riêng về đời sống tâm hồn của nhân vật. Nếu Vũ Tú Nam trong Đi đón cơn mưa miêu tả thành công những xao động trong tâm hồn của một người thầy giáo khi biết được tình cảm của một người phụ nữ có số phận bất hạnh dành cho mình thì Thùy Linh lại đọc ra được một nghị lực ghê gớm, một sự thèm khát tình yêu của bố mẹ trong đôi mắt vốn lạnh lùng của cậu bé Nguyên Mặt trời bé con của tôi. Phạm Thị Minh Thư miêu tả những trạng thái tâm hồn đầy tinh tế, thơ mộng và tràn đầy niềm tin của nhân vật trong một đêm tản cư mà có lẽ chẳng sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi Có một đêm như thế. Dù rằng mỗi tác giả truyện ngắn mới chỉ đi vào miêu tả tâm lí nhân vật trong từng thời khắc nhất định chứ chưa phải là toàn bộ quá trình tâm lí thì điều này cũng đã góp phần làm cho nhân vật được soi chiếu ở nhiều bình diện. Mặt khác khi đi vào miêu tả tâm lí nhân vật, các cây bút truyện ngắn còn sử dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp để khám phá sâu hơn nội tâm nhân vật. Với các hình thức giấc mơ, điềm báo, đối thoại giữa những mảng tâm linh… nhờ đó chất người được bộ lộ đa chiều, đa diện hơn. Dưới hình thức những cơn mộng du Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Nguyễn Minh Châu đã khắc họa sâu sắc những tình cảm của một người đàn bà suốt đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối. Cả thiên truyện dường như được bao bọc trong một bầu không khí phảng phất màu sắc mộng mị, huyền thoại. Nhiều lần trên con tàu mộng du của Quỳ yếu tố tâm linh đã xuất hiện góp phần soi tỏ nội tâm nhân vật. Chẳng hạn khi gặp pho tượng Phật ngàn tay ngàn mắt ở một ngôi chùa trong một lần đi công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 tác, Quỳ nghĩ ngay đến đôi bàn tay của người trung đoàn trưởng đã hi sinh. Quỳ nâng vạt áo quân phục dính đầy dầu mỡ lên lau sạch những lớp bụi bám trên một bàn tay. Nhưng khi vừa chạm tới, vạt áo của chị đã ướt đẫm mồ hôi, y như mồ hôi người cứ dấp dính toát ra từ chất gỗ. Và cảm giác của nhân vật lúc này hoàn toàn được soi chiếu từ ánh sáng của tâm linh Tôi sợ hãi lùi ra xa, ngước nhìn khuôn mặt ấy tự nhiên tôi bỗng hoảng hốt khi nhận ra đang phảng phất trên cặp môi bằng gỗ, vẫn cái nụ cười ấy, cái nụ cười bí ẩn mà tôi đã trông thấy rất nhiều lần hiện lên trên cặp môi anh ấy trước khi chết[11/164]. Dưới hình thức của một giấc mơ, truyện ngắn Mai Thanh Quế lại bộc lộ được những diễn biến tâm trạng nhân vật người cha sau nhiều ngày đi tìm mộ con không đem lại kết quả gì. Một buổi sáng khi ông vừa định trở dậy thì chẳng hiểu vì lí do bí ẩn nào một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông nằm xuống. Ngay lập tức một cơn mơ lạ đến với ông. Trong giấc mơ, ông đã gặp con gái mình trong một rừng dương. Kì lạ thay giấc mơ ấy lại trùng với manh mối để tìm ra mộ con ông. Ông thấy cái việc tìm mộ con có điều gì thật bí ẩn, nó giông giống như trong giấc mơ. Phải chăng vong hồn cô con gái đã mách bảo cho người cha? Hay đó chính là cái ánh sáng được phát ra từ thế giới bên trong như một sự mác bảo của tâm linh? Bởi lẽ vốn từ xưa ông không hề mê tín. Nhưng hôm nay, tự nhiên ông thấy trong lòng ông rao rực, tai ông nóng bừng và chung quanh nhà ông lâu nay im ắng bỗng có một bầy chim lạ về chao hót[67/273]. Diễn tả cái khoảnh khắc biến động trong tâm hồn người cha từ đời sống tâm linh như thế cũng là một cách đi vào chiều sâu tâm hồn nhân vật. ở Những bông bần li Dương Thu Hương thì sự kết hợp của hai yếu tố thực và ảo cũng góp phần soi sáng chiều sâu tâm thức nhân vật. Nếu cuộc sống hiện tại với người chồng hờ hững vô tâm chỉ đem lại cho Ngân những bực bội, đau khổ thì hình ảnh và sự hi sinh của Nghiêm người yêu trong quá khứ của Ngân lại đem đến cho chị những sự nâng đỡ. Dù rằng những tình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 cảm ấy chỉ như một tiếng sấm vọng về từ cuối trời xa khi cơn giông đã qua đi lâu lắm thì nó vẫn làm cho người đàn bà ba mươi lăm tuổi ấy lần đầu tiên biết nghĩ đến đời mình một cách thấu đáo. Cũng là lần đầu tiên chị tìm thấy nguồn sáng riêng biệt cho đường đi của mình[67/157]. Sự soi rọi từ bóng hình của người chiến sĩ đã hi sinh có tác động thăng bằng và thanh lọc tâm hồn Ngân. Nó như một luồng ánh sáng thoạt đầu còn mỏng manh như sợi khói trong cõi vô thức xa xôi nhưng dần dần nó rõ nét hơn, lớn hơn choán hết tâm trí chị. Như vậy, trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phương diện đời sống tâm linh con người được khám phá ở một chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt đến. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật. Nhìn chung, việc khám phá sâu vào lĩnh vực tâm linh, mở ra những miền phong phú, bí ẩn không cùng của con người chính là xuất phát từ một quan niệm không đơn giản, xuôi chiều về con người, từ ý muốn khám phá con người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích[21/288]. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau Bên cạnh việc phân tích tâm lí, nhân vật còn được đặt trong dòng thời gian và lịch sử, trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, trong những nghịch lí của tồn tại, trong sự khác biệt của những người hôm qua và những người hôm nay. Nguyễn Văn Long cho rằng giải pháp nghệ thuật mà một số truyện ngắn đã tìm đến là đặt nhân vật vào trong những chiều thời gian khác nhau, đan cài giữa hiện tại và quá khứ để làm nổi bật nghệ thuật này trong đời sống tinh thần và số phận mỗi con người khác nhau[39/218]. Việc sử dụng thời gian đồng hiện thường đi liền với những đối thoại bên trong của nhân vật như là những thủ pháp giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới bên trong, vào những diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp của con người. Có thể kể đến những truyện ngắn đã thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật này như Sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 trong thời gian hai chiều Vũ Tú Nam, Có một đêm như thế Phạm Thị Minh Thư, Gió từ miền cát Xuân Thiều, Người không đi cùng chuyến tàu Nguyễn Quang Thân… ở những truyện ngắn này việc đan xen giữa hiện tại và quá khứ thể hiện sự phân thân trong đời sống tinh thần của con người. Giữa những lo toan đời thường sau chiến tranh, con người vẫn dành một phần tâm tưởng cho quá khứ. Nhiều lần hiện tại mờ đi hoặc đi soi sáng nhờ quá khứ. ở Những bông bần li, quá khứ đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhân vật Ngân. Quá khứ với một người yêu đã hi sinh nhưng đôi mắt nâu dài, khi cười như có nắng của anh vẫn luôn theo chị. Đặc biệt là những lời nói cuối cùng của anh trước khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống hiện tại Những bài học lịch sử…đó chính là luồng sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157]. Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt ông trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa dòng đời, trước dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm chúng nó con cháu mình đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào tâm hồn mệt mỏi Miên Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư. ở truyện ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc sống hiện tại. Trong Khách ở quê ra Nguyễn Minh Châu thời gian hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai Tuổi thơ im lặng, Gió từ miền cát . Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người . thuật trần thuật Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả. Trong trần thuật có nhiều phương diện điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những dấu hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn hoá[78]. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể Trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ ngôi thứ nhất về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác giả. Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm 1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi hướng nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi Mặt trời bé con của tôi- Thùy Linh, nhân vật tôi Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành Long...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai trò trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ điểm nhìn của người kể truyện Hạnh Nhơn. Qua hình thức kể truyện này, người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tự nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của mình Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể chuỵện đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình Cuộc đời của em như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu chuyện và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng. ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ Người đà bà trên chuyến tàu tốc hành, là Miên Có một đêm như thế là Ngân Những bông bần li…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến câu chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của câu chuyện. Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể. Thời kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm. Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được trần thuật từ điểm nhìn này Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K… Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá thân vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh của ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của bác Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như sắp phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí hoá thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới đa dạng, đa chiều . Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn. Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ nó. Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát cho người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô cùng phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì những đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp . Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm nhìn cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu . Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh, văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế nhân vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương… Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975, người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này, giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt. Sự hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối thoại khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân vật A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì mang giọng tư biện Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127]; khi lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm hồn đang diễn ra những biến cố dữ dội. Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau. Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc đối thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí. Đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80. Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở Sắm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là giọng điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường . Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Cuộc sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn cuộc sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy Nguyễn Khải bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 PHẦN KẾT LUẬN 1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư cách người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy nhiên, những sự thay đổi đó mới chỉ là những dấu hiệu tiềm ẩn, chưa định hình rõ ràng, với những thể nghiệm, những bước dò tìm để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Trong hướng đi mới này, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… như là khúc dạo đầu cho truyện ngắn nói riêng và cũng là cho cả một giai đoạn văn học mới. Tiếp sau họ xuất hiện một lớp nhà văn trẻ như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Hồ Anh Thái… Họ sẽ là lực lượng chính đưa văn xuôi Việt Nam đổi mới sau 1986 chính thức lên đường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Tất cả những dấu hiệu đổi mới trong các truyện ngắn mà luận văn khảo sát có thể xem như là những mũi khoan thử nghiệm của một hướng tìm tòi, đổi mới ban đầu của thể loại nằm trong quy luật vận động, phát triển không ngừng của nền văn học Việt Nam hiện đại trong sự giao lưu và tiếp xúc với văn học thế giới. Các sáng tác ấy chưa hẳn đã đạt đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật nhưng bước đầu có tác động khá mạnh mẽ đến tư duy sáng tạo của các nhà văn cũng như tâm lí tiếp nhận của bạn đọc. 2. Một trong những phương diện có nhiều dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng ở giai đoạn sau chiến tranh là phương diện đề tài. Đề tài chiến tranh tiếp tục là mảnh đất giàu tiềm năng cho các cây bút khai vỡ. Tuy nhiên khi đi vào đề tài này thấy sự trăn trở, tìm tòi những cách tiếp cận mới. Phần lớn các sáng tác về đề tài này chỉ lấy bối cảnh chiến tranh làm cái nền để bộc lộ những phẩm chất anh dũng, nhân văn của con người. Các tác giả đã cố gắng tạo ra sự hài hòa khi thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến tranh với tinh thần nhân bản của con người và tinh thần chiến đấu của dân tộc. Mặt khác, sự chú ý của các cây bút nghiêng về khai thác những hậu quả của chiến tranh, những sự lầm lạc phản bội, những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở đó, con người cá nhân được thể hiện một cách sinh động, toàn vẹn, sâu sắc. Nhờ vậy, nhiều truyện ngắn giai đoạn này đã bộc lộ những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, góp phần làm cân bằng trở lại cách nhìn nhận con người trong văn xuôi thời kì chiến tranh. Cùng với đề tài chiến tranh là sự xuất hiện của đề tài thế sự, đời tư. Từ sau năm 1980 trở đi đây là đề tài giữ vai trò trung tâm của nền văn học. Truyện ngắn sau chiến tranh đã tạo được những hiệu quả cao khi đi vào một cảnh đời, một tâm trạng trong những tình huống tiêu biểu của cuộc sống thường nhật. Với ý thức nhạy bén và sự gắn bó với cuộc sống, các nhà văn đã xới lên những vấn đề của cuộc sống đương đại để vừa rung một hồi chuông cảnh tỉnh vừa khẳng định niềm tin vào con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Trong giai đoạn chiến tranh, nền văn học gắn với cảm húng sử thi, với âm điệu ngợi ca và niềm lạc quan cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc thấy rõ sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Trong những truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 không chỉ có một giọng là ngợi ca mà là sự đan cài của nhiều nguồn cảm hứng cảm hứng đạo đức, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán… Nhưng tất cả đều mang cảm hứng nhân văn về số phận con người cá nhân. 3. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 ngày càng xa đần lối kể lể dài dòng với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn hơn, cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Truyện ngắn có sức khái quát cao hơn vì đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người để bộc lộ quá trình tự nhận thức. Đó là biểu hiện cho sự nhận thức về con người đã đạt đến một tư duy mới, gần với bản chất con người hơn. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp của nhiều điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong chiều sâu triết lí. Cũng chính vì thế kiểu nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách, số phận được nhiều nhà văn chú ý lựa chọn. Truyện ngắn cũng đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lí phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc. Điều đó có thể nhận thấy qua những cách kết thúc mở, những sự phức hợp của giọng điệu. Mười năm truyện ngắn 1975- 1985 là thời gian chuẩn bị tích cực cho sự định hình những nét mới, góp phần quan trọng làm nên một dòng chảy liền mạch cho văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Tài liệu tham khảo 1. Tạ Duy Anh 2002, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Vân Anh 1985, Hoa xương rồng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Vũ Tuấn Anh 1995, “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-19. 4. Vũ Tuấn Anh 2001, Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân 1984, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân 1986, “Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua”, Tạp chí Văn học, 1. 7. Nguyễn Thị Bình 1996, Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm I, Hà Nội. 8. Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 1985, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu 1983, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Tập tuyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu 1985, Bến quê Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu 2006, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Có một đêm như thế 1981 Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1981, Nxb Văn nghệ quân đội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 13. Cơ sở lí luận văn học 1985, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 2. 14. Trần Cương 1986, “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí Văn học, 3. 15. Phan Cự Đệ 1986, “Mấy vấn đề lí luận của văn học hiện nay”, Tạp chí văn học, 5. 16. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Trần Thanh Địch 1985, Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Trung Trung Đỉnh 1986, Đêm nguyệt thực Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức Chủ biên 2000, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tái bản lần thứ 6 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình 1995, Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau cách mạng tháng tám đến nay, Hà Nội. 22. Bùi Hiển 1981, Nằm vạ Tập truyện ngắn, Nxb văn học, Hà Nội. 23. Bùi Hiển 1985, Tâm tưởng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Dương Thu Hương 1981, Những bông bần li Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 25. Lê Thị Hường 1995, Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1975 -1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 26. Nguyễn Văn Kha 2006, Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 27. Nguyễn Khải1982, Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Phùng Ngọc Kiếm 2002, Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 29. Nguyễn Kiên 1986, Đáy nước Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Duy Khán 1985, Tuổi thơ im lặng Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 31. Ma Văn kháng 1986, Ngày đẹp trời Tập truyện,Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Ma Văn Kháng1985, Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 33. Lê Minh Khuê 1981, Đoạn kết Tập truyện, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 34. Lê Minh Khuê 1986, Một chiều xa thành phố Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 35. Tôn Phương Lan 2002, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tái bản lần thứ nhất 36. Tôn Phương Lan 2005, Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa h?c xã h?i, Hà Nội. 37. Phong Lê 1994, Văn học và công cuộc đổi mới Tiểu luận và phê bình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phong Lê 1983, “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, 3. 39. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn Đồng chủ biên 2006. Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 41. Thái Bá Lợi 1982, Vùng chân hòn tàu Tập truyện, Nxb văn học, Hà Nội. 42. Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt nam hiện nay, Bộ Văn hoá thông tin- Thể thao, Hà Nội. 43. Một thời đại văn học mới Tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Mười bốn truyện ngắn Nguyễn Khải, Phạm Hoa, Nhật Tuấn 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Mười bảy truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1996, Nxb Đại học quốc gia ,Hà Nội. 47. Bảo Ninh 1987, Trại bảy chú lùn Tập truyện, Nxb Hà Nội. 48. Vương Trí Nhàn 1980, Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 49. Trần Thị Mai Nhi 1994, Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki 1998, Nxb Giáo dục, Hà Nội.Tái bản lần 1 51. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi sau năm 1975. Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí Văn học, 4. 52. Phạm Xuân Nguyên 1994, “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí Văn học, 2, trang 26-31. 53. Huỳnh Như Phương 1991, “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-17. 54. Nguyễn Phương Tân, Nguyễn Thị Hạnh tuyển chọn 2002, Truyện ngắn xuất sắc về chiến tranh, Nxb hội nhà văn, Hà Nội. 55. Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 56. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 57. Nguyễn Quang Thân 1994, 15 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội . 58. Thời gian Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1983 - 1984 1985, Nxb Tổng cục chính trị, Hà Nội. 59. Thời gian và trang sách Phê bình tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Xuân Thiều 1985, Gió từ miền cát tập truyện, Nxb tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Tinh tuyển Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945-2000 2004, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 8. 62. Bích Thu 1995, “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề”, Tạp chí Văn học, 4. 63. Bích Thu 1996, “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học, 9, trang 32-36. 64. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm và lời bình 2007, Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Truyện ngắn Việt nam 1945-1985 1985, Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Truyện ngắn hay Việt Nam thời kì đổi mới 2000, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Truyện ngắn Việt nam thế kỷ XX 2002, Nxb Kim đồng, Hà Nội, 3. 68. Trang giấy trước đèn Phê bình - tiểu luận của Nguyễn Minh Châu 1994, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Nguyễn Mạnh Tuấn 1985, Hành khúc ngày và đêm Tập truyện ngắn, Nxb Lao động, Hà Nội. 70. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn 1951- 1997. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 71. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc Thế kỷ 19-20 1996, Nxb Văn học, Hà nội. 72. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề con người trong văn học” in trong Lí luận văn học, 1990, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 73. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề văn học phản ánh hiện thực” in trong Lí luận văn học, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 74. Võ Văn Trực 1993, Chuyện làng ngày ấy, Nxb Lao động, Hà Nội. 75. Từ điển thuật ngữ văn học 1992, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử 1986, “Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy và hình tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học, 6. 77. Trần Đình Sử 1991, “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn học Xô Viết”, Tạp chí Văn học, 1. 78. Trần Đình Sử 1999, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử. “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết” 1991, Tạp chí Văn học , 1. 80. Văn học Việt Nam 1975-1985-Tác phẩm và dư luận 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 81. Việt Nam nửa thế kỷ văn học Kỷ yếu hội thảo 26/9/1995 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 82. Văn học trong giai đoạn cách mạng mới 1984, Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn, Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu này
Ngày đăng 19/03/2020, 2305 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI Chun ngành Văn học Việt Nam Mã số 62 22 34 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS TS LÊ VĂN LÂN PGS TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội - 2016 LỜI CẢM ƠN Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS TS Lê Văn Lân PGS TS Hà Văn Đức Khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngƣời thầy tận tình hƣớng dẫn tơi trình nghiên cứu thực luận án Xin đƣợc gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy giáo đào tạo, dìu dắt tơi nhiều năm qua để tơi có đƣợc tri thức phƣơng pháp nghiên cứu khoa học Tôi xin cảm ơn thầy cô giáo đồng nghiệp Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn luôn động viên, tạo điều kiện cho tơi q trình học tập, cơng tác hoàn thành luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hồng LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan rằng - Luận án Tiến sĩ kết nghiên cứu riêng dƣới hƣớng dẫn tập thể hƣớng dẫn khoa học, chƣa đƣợc cơng bố cơng trình nghiên cứu ngƣời khác - Kết nghiên cứu nhà nghiên cứu khác đƣợc tiếp thu cách trung thực, cẩn trọng luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hoàng MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài “Thể loại văn học chất phản ánh khuynh hƣớng phát triển vững bền, vĩnh văn học, thể loại văn học tồn để gìn giữ, đổi thƣờng xuyên khuynh hƣớng Do mà thể loại văn học ln vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định” [150, Trong trình sáng tạo, nhà văn kiến tạo tác phẩm thuộc thể loại định, mặt bảo lƣu đặc trƣng cốt yếu thể loại, mặt khác khơng ngừng tìm tòi, cách tân để tác phẩm có đƣợc diện mạo, sức sống riêng, nhờ góp phần làm nên biến đổi, phát triển thể loại Việc quan sát vận động thể loại văn học công việc cần thiết, có ý nghĩa quan trọng nghiên cứu lịch sử văn học nói chung Văn học Việt Nam đầu kỷ XX thực công đại hóa mau lẹ phức tạp để tiến bƣớc dài từ phạm trù trung đại sang phạm trù đại, từ quỹ đạo vùng Đông Á gia nhập vào quỹ đạo toàn giới Một biểu rõ nét cơng đại hóa phá vỡ mơ hình thể loại truyền thống, hình thành cấu trúc thể loại với tự sự, trữ tình kịch Vận động dòng chảy chung văn học, truyện ngắn đại đƣợc hình thành qua giai đoạn 1932 – 1945, 1945 – 1975 đạt đƣợc nhiều thành tựu, đánh dấu bƣớc quan trọng thể loại Năm 1975, chiến tranh kết thúc, miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, sống trở với quỹ đạo bình thƣờng Hồn thành sứ mệnh phục vụ kháng chiến, văn học từ năm 1975 đến vừa kế thừa thành tựu giai đoạn trƣớc, vừa vận động phát triển với nguyên tắc, khuynh hƣớng, đặc điểm Nếu nhƣ thơ ca phải đợi đến sau năm 1986 thực có đƣợc bƣớc ngoặt quan trọng cho q trình đổi văn xi, q trình đƣợc khởi tạo sau năm 1975 Với cách nhìn mẻ ngƣời thực, nhiều tác giả văn xuôi bƣớc đổi phƣơng thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật đặc điểm thi pháp tác phẩm, sớm phải kể tới tiểu thuyết Lê Lựu Thời xa vắng, Ma Văn Kháng Mưa mùa hạ, Mùa rụng vườn, Nguyễn Mạnh Tuấn Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Nguyễn Khải Cha Con, và…, Gặp gỡ cuối năm hay truyện ngắn Thái Bá Lợi Hai người trở lại trung đoàn, Xuân Thiều Gió từ miền cát, Nguyễn Minh Châu Người đàn bà chuyến tàu tốc hành, Bến quê… Cuộc chiến tranh vừa qua dân tộc vấn đề sự, đời tƣ, số phận ngƣời điều kiện lịch sử đƣợc tƣ duy, nhận thức cách mẻ Có thể nói, khơng đợi đến cơng đổi tồn diện đất nƣớc đƣợc Đảng khởi xƣớng vào cuối năm 1986, nhu cầu đổi tƣ thể nghiệm đổi đƣợc nhà văn thực hoá mạnh mẽ văn chƣơng chiến tranh kết thúc, đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn hòa bình, dựng xây Những biến chuyển phác thảo nên thời kỳ phát triển cho văn học thời kỳ đƣơng đại Trong tranh chung đó, thành tựu đổi truyện ngắn đƣợc xác lập sớm sơi Có thể nói thể loại tự cỡ nhỏ động, linh hoạt chứng tỏ nhạy bén nhƣ ƣu bƣớc chuyển định hình văn học Việt Nam bốn mƣơi năm qua Thực tế đặt nhiệm vụ tìm hiểu diện mạo lịch sử truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn thể loại Đã có cơng trình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 mảng vấn đề, khía cạnh khác nhau, chẳng hạn nghiên cứu tác giả nhóm tác giả truyện ngắn tiêu biểu; phận truyện ngắn đƣợc đăng tải số tờ báo, tạp chí; đặc điểm truyện ngắn vùng miền, chặng đƣờng phát triển cụ thể Theo quan sát chúng tôi, tiểu thuyết thơ đƣợc quan tâm nghiên cứu cách bao quát chi tiết nhiều công trình khoa học lý luận nhƣ lịch sử thể loại, đến thiếu vắng cơng trình soi rọi cách có hệ thống truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc độ thể loại để thấy đƣợc vận động biến đổi thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc, nhƣ tƣơng quan với thể loại khác giai đoạn – tức đƣợc đặc điểm thể loại xét từ hai chiều lịch đại đồng đại Xuất phát từ tiền đề lý luận thực tiễn nhƣ trên, luận án lựa chọn đề tài nghiên cứu Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Chúng xác định đối tƣợng nghiên cứu luận án đặc điểm cho thấy vận động đổi truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 xét phƣơng diện thể loại, đặc điểm dung lƣợng, tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ giọng điệu Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nghiên cứu, luận án khảo sát nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến Tuy nhiên, đứng trƣớc diện vô đa dạng phong phú truyện ngắn văn học Việt Nam giai đoạn này, với số lƣợng lớn tác giả, tác phẩm nhiều kiểu loại, nhiều khuynh hƣớng, phong cách, tập trung nghiên cứu nhiều vào tác phẩm thể rõ vận động, đổi thể loại, phù hợp với hƣớng tiếp cận chúng tơi Đó tác phẩm đạt giải thƣởng văn học, tác phẩm công bố tạo nên dƣ luận sôi nổi, tác phẩm nhà văn định hình phong cách, đƣợc biết đến rộng rãi công chúng văn học, đƣợc giáo trình, viết có uy tín văn học Việt Nam giai đoạn đánh giá tiêu biểu Với giới hạn quy mô khả bao quát tƣ liệu, sáng tác truyện ngắn tiếng Việt nƣớc giai đoạn không thuộc phạm vi nghiên cứu luận án Do đối tƣợng nghiên cứu tiếp tục vận động phát triển, xác định mốc thời gian sau cho tác phẩm phạm vi khảo sát luận án truyện ngắn đƣợc xuất năm 2014 Chúng tơi hy vọng thơng qua đó, thấy đƣợc, tất cả, đặc điểm bật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc độ thể loại Bên cạnh đó, số truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn phát triển trƣớc số tác phẩm đồng đại thuộc thể loại khác đƣợc liên hệ, đối sánh tới cần thiết Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát thành tựu nhƣ điểm dừng, hạn chế thể loại bối cảnh chung văn học Việt Nam đƣơng đại Nhiệm vụ nghiên cứu Trên sở khảo sát đối tƣợng nghiên cứu, luận án tìm hiểu vận động mặt thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phƣơng diện co giãn dung lƣợng tác phẩm, xâm nhập giao thoa phƣơng thức tự sự, vận động kiểu tình chính, đa dạng hóa hình thức kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật ngôn ngữ Luận án đặt truyện ngắn Việt Nam sau 1975 tiến trình vận động phát triển thể loại truyện ngắn Việt Nam, đƣợc tính kế thừa biến thiên, cách tân thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc Từ đó, đƣa số đánh giá thành tựu lý giải điểm dừng, giới hạn truyện ngắn bối cảnh chung thể loại văn học đƣơng đại Việt Nam Đạt đƣợc mục đích trên, luận án đƣa nhìn tổng quan truyện ngắn văn học Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại, trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu văn xi nói riêng, văn học Việt Nam nói chung Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án áp dụng thi pháp học tự học vào việc phân tích, tìm hiểu đặc trƣng truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Với ý nghĩa cơng trình nghiên cứu giai đoạn phát triển thể loại, trƣớc hết, vận dụng phƣơng pháp thực chứng lịch sử để mô tả, khái quát tình hình vận động phát triển truyện ngắn phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại Từ đó, luận án vừa tổng kết đối tƣợng, vừa đƣa đƣợc so sánh, liên hệ đối tƣợng với truyện ngắn Việt Nam giai đoạn trƣớc Bên cạnh đó, phƣơng pháp loại hình đƣợc vận dụng chƣơng mở đầu luận án nhằm phân chia đối tƣợng nghiên cứu thành kiểu, loại với tiêu chí nhận diện cụ thể Phƣơng pháp giúp cho luận án, chƣơng tiếp theo, nhìn nhận phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại truyện ngắn giai đoạn tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ nhƣ tổng thể với nhiều nhóm đối tƣợng đƣợc phân loại khảo sát cách độc lập tƣơng đối, vừa thống nhất, vừa đa dạng Các thao tác khoa học cụ thể đƣợc vận dụng luận án nhƣ sau Thao tác thống kê, phân loại, hệ thống hoá nhằm nhận diện nhóm đối tƣợng khảo sát đặc điểm chúng nhƣ kiểu truyện, kiểu tình huống, kết cấu, nhân vật Thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm đƣa nhận định khoa học, minh chứng đối tƣợng khảo sát, từ đánh giá, lý giải kết luận thu đƣợc Thao tác so sánh thao tác khoa học quan trọng để nhìn nhận đối tƣợng nghiên cứu liên hệ, tƣơng quan, đối sánh, soi rọi từ nhiều góc độ, qua tƣơng đồng khác biệt truyện ngắn kiểu khác nhau, tác giả khác nhau… Sự vận động thể loại so với giai đoạn trƣớc biến chuyển bên thân đối tƣợng giai đoạn này, nhờ thế, đƣợc làm rõ Đóng góp luận án Luận án cơng trình khoa học áp dụng lý thuyết tự học thi pháp học vào việc nghiên cứu thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Tuy có số cơng trình theo hƣớng nghiên cứu này, nhƣng với phạm vi nghiên cứu rộng lớn hƣớng triển khai mình, luận án cơng trình khảo sát đối tƣợng để đến nhận định, tổng kết khái quát đặc điểm thi pháp, vận động thành tựu truyện ngắn Việt Nam bốn mƣơi năm qua Vì thế, luận án khơng góp phần làm sáng tỏ vấn đề có tính lý luận thể loại, mà khảo sát gắn với quan điểm việc phân kỳ tổng kết văn học sử Cùng với cơng trình nghiên cứu tổng quan thể loại khác tiểu thuyết, thơ , luận án góp phần đƣa hình dung khái quát chặng đƣờng bốn mƣơi năm vận động phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đƣơng đại Luận án cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy học tập ngành Văn học trƣờng Đại học, Cao đẳng, cho độc giả quan tâm văn học Việt Nam sau 1975 Cấu trúc luận án Luận án bao gồm Mở đầu, Nội dung, Kết luận Tài liệu tham khảo Nội dung đƣợc chia thành bốn chƣơng - Chƣơng 1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 113 Nhiều tác giả 2012, Tiếp nhận văn học nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 114 Phạm Phú Phong 2005, “Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết chiến tranh sau năm 1975”, Truy cập ngày 03/03/2008 115 Huỳnh Nhƣ Phƣơng 1991, “Văn xuôi năm 80 vấn đề dân chủ hóa văn học”, Tạp chí Văn học 4, 116 Pôxpêlốp Chủ biên 1985, Dẫn luận nghiên cứu văn học, T II, NXB Giáo dục, Hà Nội 117 Lê Hồ Quang 2012, “Cảm hứng truyện ngắn Lê Minh Khuê”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 3, 118 Saussure F 1973, Giáo trình Ngơn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 119 Shoyo T 2013, Chân tủy tiểu thuyết, Trần Hải Yến dịch giới thiệu, NXB Thế giới, Hà Nội 120 Trần Đình Sử 1987, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà 121 Trần Đình Sử 2000, Lý luận phê bình văn học, NXB Giáo dục, Nội Hà Nội 122 Trần Đình Sử 2001, Văn học thời gian, NXB Văn học, Hà Nội 123 Trần Đình Sử Chủ biên 2004, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 124 Trần Đình Sử Chủ biên 2008, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 174 125 Trần Đăng Suyền 2002, Nhà văn thực đời sống cá tính sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 126 Nguyễn Bá Thành 2006, Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 127 Phạm Xuân Thạch 2005, “Tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, suy nghĩ từ tác phẩm mang chủ đề lịch sử”, Truy cập ngày 3/3/2008 128 Phạm Xuân Thạch 2013, “Văn Việt - qua quyển”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học, nghệ thuật 9, 129 Phạm Xuân Thạch 2014, Sự khởi sinh tính đại - Trần thuật Việt Nam ba thập niên đầu kỷ XX, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 130 Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà 131 Bùi Việt Thắng 2000, Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết Nội thực tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 132 Bùi Việt Thắng 2005, Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 133 Phạm Thị Thật 2009, Truyện ngắn Pháp cuối kỷ XX – số vấn đề lý thuyết thực tiễn sáng tác, NXB Giáo dục, Hà Nội 134 Đoàn Cầm Thi 2004, “Chiến tranh, tình yêu, dục vọng văn học Việt Nam đƣơng đại”, Truy cập ngày03/03/2008 135 Nguyễn Huy Thiệp 2005, Giăng lưới bắt chim, NXB Hội Nhà văn - Cơng ty Văn hóa Đơng A, Hà Nội 136 Nguyễn Quang Thiều Chủ biên 2000, Tác giả nói tác phẩm, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 137 Xuân Thiều 2005, Tiếng nói cảm xúc, NXB Phụ nữ, Hà Nội 175 138 Lƣu Khánh Thơ 2005, “Từ quan niệm thơ đến lý luận tiểu thuyết - Bƣớc tiến đƣờng đại hóa văn học dân tộc” Tạp chí Nghiên cứu văn học 4, 139 Bích Thu 1996, “Những thành tựu truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học 9, 140 Bích Thu 1998, Theo dòng văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 141 Bích Thu 1999, “Những dấu hiệu đổi văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống mơ típ chủ đề”, Tạp chí Văn học 01, 142 Bích Thu 2008, “Yếu tố trữ tình truyện ngắn Lƣu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 9, 143 Lý Hoài Thu 2006, Đồng cảm sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 144 Phan Ngọc Thu 2008, “Thái Bá Lợi trình đổi bút pháp sáng tạo”, http // Truy cập ngày 20/5/2014 145 Đỗ Lai Thúy 2011, Phê bình văn học, vật lưỡng thê ấy, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 146 Hỏa Diệu Thúy 2010, Truyện ngắn đại Việt Nam 1945 - 1975, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 147 Lê Hƣơng Thủy 2006, “Truyện ngắn sau 1975 - số đổi thi pháp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 11, 148 Lê Hƣơng Thủy 2013, Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 - nhìn từ góc độ thể loại, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội 149 Todorov T 2004, Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 150 Lê Ngọc Trà 2005, Lý luận văn học, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 176 151 Ngọc Trai 1987, “Sự khám phá ngƣời Việt Nam qua truyện ngắn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội 10, 152 Phạm Thị Ngọc Trâm 2002, “Về tƣợng mƣợn truyện cổ dân gian truyện ngắn từ sau năm 1975”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 6, 153 Bùi Thanh Truyền 2006, “Yếu tố kỳ ảo văn xuôi đƣơng đại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội 154 Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội - Khoa Ngữ văn - Bộ môn Văn học nƣớc 2013, Văn học hậu đại - Lý thuyết thực tiễn, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 155 Trƣờng Đại học Vinh - Khoa Ngữ văn 2012, Tiểu thuyết truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến nay, NXB Đại học Vinh, Nghệ An 156 Lê Dục Tú 2007, “Thể loại truyện ngắn đời sống văn học đƣơng đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 2, 157 Lê Dục Tú 2012, “Đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn đƣơng đại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 158 Lê Dục Tú 2012, “Truyện ngắn đƣơng đại đề tài chiến tranh - đổi tƣ thể loại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 159 Nguyễn Thanh Tú 2009, Văn học người lính, NXB Văn học, Hà 160 Trịnh Thu Tuyết 1999, “Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây Nội dựng nhân vật truyện ngắn”, Tạp chí Văn học 1, 161 Dƣơng Tƣờng 2010, Chỉ chích chòe, NXB Hội Nhà văn, Hà 162 Phùng Văn Tửu 1996, “Một phƣơng diện truyện ngắn”, Tạp chí Nội Văn học 2, 177 163 Dƣơng Phƣơng Vinh 2005, “Đỗ Hồng Diệu Bóng đè ngày giơng bão”, Truy cập ngày 7/6/2014 164 Vƣgốtxki L X 1995, Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 165 Xô-skin 1962, Vận dụng thể truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội 166 Zohar I E 2014, Lý thuyết đa hệ thống nghiên cứu văn hóa, văn chương, Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch, NXB Thế giới, Hà Nội Tiếng Anh 167 Neuage T 1997, Influence of the World Wide Web on literature, Masters thesis, University of South Australia, Truy cập ngày 18/10/2010 Tiếng Pháp 168 Aron P., Saint – Jacques D., Viala A 2004, Le dictionaire du litéraire, Deuxième édition revue et augmentée, Quadrige/ PUF, Paris 169 Grojnowski D 1993, Lire la nouvelle, Dunod, Paris 170 Jauss H R 1978, Pour une esthétique de la réception, traduit de l’ Allemand par Claude Maillard, Gallimard, Paris 171 Montalbetti C 2003, Le personnage, GF Corpus, Paris 172 Piegay - Gros N., 2002, Le lecteur, GF Corpus, Paris 173 Souriau E 1990, Vocabulaire d’esthétique, Press universitaires de France, Paris 178 PHỤ LỤC Bảng 1 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập Truyện ngắn hay Việt Nam thời kỳ đổi mới, tập NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 7/30 ≈ 24% 13/30 ≈ 43% 10/30 ≈ 33% Chiếc thuyền xa Một lần đối chứng Thanh minh trời sáng Tiếng dội từ rừng đƣớc Dƣới đáy vực Ngƣời bào chế thuốc Bên gốc bàng Lãng tử Quãng vắng giảm đau Tiếng khóc tiếng hát Trang viết bão Lên ruồi Ngƣời kể chuyện thuê Gặp lại Đạo tƣởng Ảnh đen trắng Tình buồn Gió heo may Nghĩa địa xóm Chùa Những ngƣời đàn bà Quyền khơng điên Con mèo Foujita Tự truyện Lá quốc thƣ Hai ông cháu ngƣời chủ xƣa Bụi cỏ đƣờng làng Sự tích ngày đẹp trời 179 Con mèo Tƣớng hƣu Muối rừng 180 Bảng 2 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập 33 truyện ngắn chọn lọc 1945 – 1975 NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1976 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 3/33 ≈ 9% 18/33 ≈ 55% 12/33 ≈ 36% Ngƣời kháng chiến Một lần tới thủ đô Mầm sống Đôi mắt Kỷ niệm ngƣời xa Đêm hồng Mảnh trăng cuối rừng Mùa cá bột Những đò danh dự Quê hƣơng Khác trƣớc Con chị Lộc Mùa lạc Ngƣời tị nạn Lặng lẽ Sa Pa Tiếng nói Rẻo cao Anh Keng Mùa nấm tràm Vợ nhặt Một chuyện vui Ngƣời cầm súng Chuyện bên bờ sông Vàm Cỏ Ngƣời thợ chữa đồng hồ Chuyện xóm tơi đƣờng hầm số Ông Bồng Về làng Thƣ nhà 181 Chiếc cán búa Ngƣời tù binh da đen Cái lạt Bức thƣ làng Mực Con trâu bạc 182 Bảng 3 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Như gió Nguyễn Huy Thiệp NXB Văn học, Hà Nội, 1995 Từ, tổ hợp từ Ngữ Tâm hồn mẹ Mệnh đề, câu Những học nông Chảy sơng thơn Tƣớng hƣu Sang sơng Khơng có vua Cún Truyện tình kể Chút thống Xn Hƣơng đêm mƣa Huyền thoại phố Vàng lửa phƣờng Muối rừng Kiếm sắc Con gái thủy thần Đời mà vui Giọt máu Thƣơng nhớ đồng quê Mƣa Chăn trâu cắt cỏ Những ngƣời thợ xẻ Thƣơng cho đời bạc Phẩm tiết Hạc vừa bay vừa kêu thảng Nguyễn Thị Lộ Khơng khóc California Trƣơng Chi Thiên văn 183 Mƣa Nhã Nam Tội ác trừng phạt Những gió Hua Tát 184 Bảng 4 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Màu xanh man trá Lê Minh Khuê NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2005 Từ, tổ hợp từ Ngữ Mệnh đề, câu Mong manh Câu chuyện tác thành Mờ mờ nhân ảnh Ronan Keating Thành phố nhà cao Qua vƣờn đến trƣờng Đầu máy nƣớc Vƣờn xa Đùa cho vui Ngọn lửa Bánh khoái miền Trung Số phận may rủi Hai bờ Xứ lạ Nƣớc cỏ xanh Trò chơi cờ bạc Lƣng chừng trời Màu xanh man trá Quà biển 185 Bảng 5 Khảo sát kiểu tình tập Truyện ngắn Việt Nam kỷ XX giai đoạn 1976 - 2000, tập 29 NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2002 Kiểu tình STT Tên truyện Nhận thức Hành động Tâm trạng Hoa cho ngày cƣới X Mùa hoa cải bên sông X Ngƣời đàn bà tóc trắng X Hai ngƣời đàn bà xóm Trại X Hồi ức làng Che X Ốc mƣợn hồn X Ngƣời hùng trƣờng làng X Sau mùa trăng X Ngải đắng núi X 10 Khơng nhan sắc 11 Có đêm nhƣ 12 Ngƣời lùn truyện cổ Grim 13 Tiên bay trời X 14 Sinh vào đêm trăng sáng X 15 Chiếc bình đựng ký ức X X X X Tổng số, tỉ lệ 20% 186 33% 47% MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 LÝ DO CHọN Đề TÀI ĐốI TƢợNG VÀ PHạM VI NGHIÊN CứU MụC ĐÍCH VÀ NHIệM Vụ NGHIÊN CứU PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CứU ĐÓNG GÓP MớI CủA LUậN ÁN 10 CấU TRÚC CủA LUậN ÁN 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 11 Nghiên cứu lý luận truyện ngắn 11 Nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 17 Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 21 Nghiên cứu thành tựu phong cách tác giả, nhóm tác giả tiêu biểu 22 Nghiên cứu thành tựu đổi nghệ thuật truyện ngắn 25 Nghiên cứu tương tác truyện ngắn với thể loại khác văn học Việt Nam sau 1975 28 Tiếp cận tác phẩm truyện ngắn cụ thể 29 CÁC KIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 34 Các kiểu truyện tiếp tục khuynh hƣớng vận động trƣớc năm 1975 .36 Các kiểu truyện mang khuynh hƣớng đƣơng đại 38 CHƢƠNG 2 TÌNH HUỐNG VÀ KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 TÌNH HUỐNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 Sự chuyển biến nghệ thuật xây dựng tình 45 Các kiểu tình .48 Tình nhận thức 48 Tình hành động 51 Tình tâm trạng 54 KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 58 Các phƣơng thức kết cấu 61 Kết cấu theo lôgic nhân 62 Kết cấu đa tầng 69 Kết cấu lắp ghép 71 Kết cấu liên hoàn 75 187 Các thành tố bổ trợ kết cấu 77 Nhan đề 77 Mở đầu 82 Đoạn kết 84 CHƢƠNG 3 NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 90 CÁC KIỂU NHÂN VẬT CHỦ ĐẠO 91 Nhân vật tƣ tƣởng 93 Nhân vật tính cách – số phận 98 Nhân vật tự chủ 98 Nhân vật bi kịch 102 Nhân vật tha hóa 109 CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT .114 Khắc họa chân dung – ngoại hình, hành động nhân vật .115 Phân tích tâm lý nhân vật 116 Sáng tạo chi tiết nghệ thuật 121 CHƢƠNG 4 NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 .129 NGÔN NGỮ GẦN GŨI VỚI NGÔN NGỮ ĐỜI SỐNG THÔNG TỤC 129 Trên phƣơng diện từ ngữ .130 Trên phƣơng diện cú pháp 138 TÍNH CHẤT GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG NGƠN NGỮ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ thơ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ kịch 149 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ báo chí 153 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 164 PHỤ LỤC……………………………………………………………………… 179 188 ... nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát... nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN... tạo nên nhìn khái qt đối tƣợng nghiên cứu từ góc độ thể loại Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Bên cạnh cơng trình nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại ,
truyện ngắn việt nam sau 1975