Bản Đồ Học (NXB Giáo Dục 1986) - Ngô Đạt Tam, 217 Trang. Discussion in ' Đại Học Sư Phạm (Toàn Quốc) ' started by nhandang123, Jun 5, 2017 . Tags: bản đồ học ebook pdf. lê ngọc nam. ngô đạt tam. nguyễn trần cầu. I. Mục tiêu, nhiệm vụ: - Nghe-viết đúng, trình bày đúng đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi. - Nắm vững qui tắc viết chính tả với c, k; g, gh; ng, ngh. II. Đồ dùng dạy học: - Bút dạ, một số tờ phiếu ghi trước nội dung bài tập 2, 3 cho HS làm việc theo nhóm hoặc Cuốn sách này thảo luận về vai trò của y học hạt nhân trong chẩn đoán, chẩn đoán giai đoạn và điều trị bệnh nhân mắc các bệnh ung thư cụ thể. Nó trình bày tỷ lệ mắc bệnh, các khía cạnh sinh lý bệnh và lâm sàng của bệnh, việc sử d [] Xem tiếp. BẢN ĐỒ HỌC ĐẠI CƯƠNG LỜI NÓI ĐẦU Ngay từ những này đầu thành lập Khoa Địa lí, giáo trình Bản đồ học đã được xác định là một trong những giáo trình chính của chương trình đào tạo. Trong quá trình phát triển của khoa, giáo trình Vì vậy, việc học tập và nghiên cứu lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ là hết sức cần thiết. Nhằm phù hợp với chương Giáo trình Bản đồ học - Địa lí - Lê Thanh Long - Thư viện Giáo án điện tử Danh sách phân công giáo viên hướng Đồ án tốt nghiệp-HK 2_NH 2021-2022 (Bản hiệu chỉnh) Cập nhật 30/04/2022 - 08:53:43 AM (GMT+7) Văn phòng khoa trân trọng thông báo SV đã đăng ký Đồ án tốt nghiêp Học kỳ 2_Năm học 2021-2022 đợt ngày 02/05/2022 đến ngày 07/08/2022 thông tin điều Giáo trình Bản đồ học: LỜI NÓI ĐẦU Trong mọi thời đại, bản đồ luôn giữ một vai trò quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống. Vì vậy, việc học tập và nghiên cứu lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ là hết sức cần thiết. Nhằm phù hợp với chương trình giảng dạy mới, phục vụ học FkRq. Giáo trình Bản đồ học Phần 1 cung cấp cho người học những kiến thức như Những khái niệm về bản đồ học; Cơ sở toán học của bản đồ; Các phép chiếu bản đồ đã sử dụng ở Việt Nam - Phân mảnh và đặt phiên hiệu bản đồ; Tổ chức thành lập và tổng quát hóa bản đồ; Ngôn ngữ bản đồ. Mời các bạn cùng tham khảo! Tags giáo trình bản đồ học ebook pdf khoa tài nguyên và môi trường nxb đại học nông nghiệp 2013 trần trọng phương đại học nông nghiệp hà nội Hỗ Trợ Diễn Đàn Staff Member Quản Trị Viên Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập của giảng viên, sinh viên chuyên ngành Quản lý đất đai và các chuyên ngành liên quan, góp phần phục vụ nghiên cứu, ứng dụng về bản đồ thuộc lĩnh vực Tài nguyên Môi trường, chúng tôi xuất bản cuốn giáo trình Bản đồ học. Giáo trình bản đồ học được biên soạn dựa trên cơ sở chương trình đào tạo tính chỉ cho ngành Quản lý đất đai và các ngành liên quan, dùng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng đã được Bộ giáo dục Đào tạo phê duyệt. Giáo Trình Bản Đồ Học NXB Đại Học Nông Nghiệp 2013 Trần Trọng Phương 221 Trang File PDF-SCAN Link Download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh Giáo Trình Bệnh Động Vật Thủy Sản NXB Nông Nghiệp 2012 - Đặng Xuân Bình, 295 Trang02/06/2015 Giáo Trình Quản Lý Tài Nguyên Nước NXB Nông Nghiệp 2017 - Nguyễn Thế Đặng, 158 Trang07/10/2017 Giáo Trình Bệnh Nội Khoa Gia Súc NXB Nông Nghiệp 2004 - Vũ Đình Vượng, 268 Trang20/07/2015 Giáo Trình Tin Học Ứng Dụng NXB Nông Nghiệp 2000 - Nguyễn Mạnh Đức, 144 Trang20/07/2015 Giáo Trình Thổ Nhưỡng NXB Đại Học Quốc Gia 2010 - Nguyễn Duy Lam, 199 Trang20/09/2017 Giáo Trình Một Sức Khỏe NXB Nông Nghiệp 2017 - Phạm Đức Phúc, Phan Thị Hồng Phúc, 202 Trang18/02/2021 Giáo Trình Môn Học Xử Lý Ra Hoa NXB Nông Nghiệp 2005 - Trần Văn Hâu, 184 Trang14/11/2013 Giáo Trình Phương Pháp Thí Nghiệm Đồng Ruộng NXB Nông Nghiệp 2012 - Đỗ Thị Ngọc Oanh, 212 Trang08/10/2017 Kỹ Thuật An Toàn Và Môi Trường NXB Hà Nội 2006 - Nguyễn Văn Nghĩa, 151 Trang16/04/2015 Giáo Trình Sinh Lý Thực Vật Ứng Dụng NXB Hà Nội 2008 - Vũ Quang Sáng, 162 Trang17/02/2017 Giáo Trình Cây Lúa NXB Nông Nghiệp 1999 - Nguyễn Thị Lẫm, 116 Trang20/07/2015 Giáo Trình Phương Pháp Thí Nghiệm Trong Chăn Nuôi Và Thú Y NXB Nông Nghiệp 2010 - Lê Đình Phùng28/10/2015 Giáo Trình Cây Lúa NXB Cần Thơ 2008 - Nguyễn Ngọc Đệ, 244 Trang08/09/2013 Bài Giảng Ký Sinh Trùng NXB Thống Kê 2004 - Nguyễn Danh Phương, 163 Trang09/09/2015 Giáo Trình Nông Lâm Kết Hợp NXB Nông Nghiệp 2007 - Đặng Kim Vui, 147 Trang13/12/2014 Last edited by a moderator Nov 15, 2022 Share This Page Forums Forums Members Members Menu Bản đồ học đại cương Bản đồ học; bản đồ địa lý; cơ sở toán học của bản đồ; ngôn ngữ bản đồ; tổng quát hóa bản đồ; phân loại bản đồ địa lý, tập bản đồ địa lý; thành lập bản đồ địa lý Lâm Quang Đốc, Phạm Ngọc DĩnhĐại học Sư phạm2010Tóm tắtToàn bộ giáo trình được cấu trúc thành 8 chương, 6 chương đầu là những kiến thức lí luận chung, trình bày có hệ thống các khái niệm cơ bản của Bản đồ học và Bản đồ địa lí, 2 chương sau là các lí luận và phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ. Về nội dung Giáo trình đã bổ sung, nâng cao nhiều cơ sở lí luận và kiến thức hiện đại của Bản đồ học như lí luận về Phương pháp bản đồ - Phương pháp nghiên cứu cơ bản của Bản đồ học, về ngôn ngữ bản đồ, khái quát hóa những đặc trưng cơ bản của Bản đồ địa lí. Đặc biệt hai chương Thành lập bản đồ và Sử dụng bản đồ mang tính ứng dụng, không chỉ nâng cao các kiến thức lí luận mà được trình bày rất sâu sắc, cụ thể các phương pháp mang tính truyền thống và tiếp cận các phương pháp và phương tiện hiện dẫnLâm Quang Đốc, Phạm Ngọc Dĩnh, Bản đồ học đại cương, Đại học Sư phạm, sưu tậpBộ sưu tập số Lĩnh vực Lịch sử, địa lýTài liệu liên quanMã QRNội dung Thứ Hai, 1336 22/08/2022 BẢN ĐỒ HỌCLỜI NÓI ĐẦUTrong mọi thời đại, bản đồ luôn giữ một vai trò quan trọng trong tất cả mọilĩnh vực của cuộc sống. Vì vậy, việc học tập và nghiên cứu lĩnh vực khoa học kỹthuật về bản đồ là hết sức cần thiết. Nhằm phù hợp với chương trình giảng dạymới, phục vụ học tập và nghiên cứu, nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trongcác trường đại học, chúng tôi đã biên soạn cuốn giáo trình “Bản đồ học”.Giáo trình gồm 7 chương với các nội dung chính Chương 1 Tổng quan về bản đồ học Chương 2 Lý thuyết chung về phép chiếu bản đồ Chương 3 Tổ chức thành lập và tổng quát hoá bản đồ Chương 4 Phân loại các bản đồ và tập bản đồ Chương 5 Các phương pháp thành lập, hiệu chỉnh bản đồ Chương 6 Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ Chương 7 Sử dụng bản đồ Giáo trình này nhằm phục vụ sinh viên ngành bản đồ và các ngành học khác có liên quan, quan tâm tới công nghệ sản xuất bản quá trình biên soạn, chúng tôi đã cố gắng diễn đạt xúc tích, cập nhật những thông tin mới, những thay đổi liên quan tới lĩnh vực bản đồ do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành. Song do thời gian và khả năng có hạn nên cuốn sách vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp và bạn đọc để cuốn sách này được hoàn chỉnh hơn trong đợt tái bản lần chân thành cảm ơn! Tác giảTÀI LIỆU THAMKHẢO...........................................................CHƯƠNG 1TỔNG QUAN VỀ BẢN ĐỒ HỌC1. Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồBản đồ học là lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ, về các tính chất, phương pháp thành lập và sử dụng bản tượng nhận thức của bản đồ học là không gian cụ thể của các đối tượng, hiện tượng thực tế khách quan và những biến đổi của chúng theo thời đồ học bao gồm các vấn đề rộng lớn về bản chất và phương pháp truyền đạt thể hiện các thông tin về tự nhiên và xã hội của bề mặt khu vực bản đồ thể hiện. Rất nhiều ngành khoa học kỹ thuật có liên quan và cần sử dụng bản đồ. Bản đồ rất cần cho sự phát triển kinh tế quốc dân, cho tìm kiếm và quản lý tài nguyên, khoáng sản, cho thiết kế các công trình công, nông nghiệp, cho quy hoạch, quản lý đất đai,...Hiện nay bản đồ là tài liệu quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ khoa học kỹ thuật, là phương pháp thể hiện thông tin trong hệ thống thông tin địa lý của mỗi khu vực và quốc đồ học bao gồm nhiều bộ môn khoa học kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng mỗi bộ môn lại có chức năng riêng Cơ sở lý thuyết của bản đồ bản đồ học đại cương Nghiên cứu bản đồ các loại, tính chất và các yếu tố của bản đồ, khả năng sử dụng các bản đồ trong thực tế, lịch sử phát triển của bản đồ học. Toán bản đồ Nghiên cứu các phương pháp chiếu bề mặt toán học elipxôit hoặc mặt cầu của trái đất lên mặt phẳng, các tính chất, các phương pháp đánh giá và lựa chọn các phép chiếu bản đồ và các yếu tố khác thuộc cơ sở toán học của bản đồ. Thiết kế và thành lập bản đồ Đó là một trong những bộ môn quan trọng nhất của bản đồ học. Nó nghiên cứu và xây dựng lý thuyết tổng quát hoá bản đồ, công nghệ thiết kế bản đồ, các nguyên tắc biên tập và thành lập bản đồ bằng phương pháp trong phòng. 1. Định nghĩa và tính chất bản đồ a. Định nghĩaBản đồ là sự biểu thị khái quát, thu nhỏ bề mặt trái đất hoặc bề mặt của thiên thể khác trên mặt phẳng trong một phép chiếu xác định, nội dung của bản đồ được biểu thị bằng hệ thống ký hiệu quy ước. Đó chính là định nghĩa chung về bản bản đồ đều được xây dựng theo một quy luật toán học nhất định. Quy luật toán học của bản đồ trước hết được biểu hiện ở tỷ lệ và phép chiếu của đối tượng và hiện tượng tức là nội dung của bản đồ được biểu thị theo một phương pháp lựa chọn và khái quát nhất định tổng quát hoá bản đồ. Tổng quát hoá bản đồ thì phụ thuộc vào mục đích của bản đồ, tỷ lệ bản đồ và đặc điểm địa lý của lãnh đối tượng và hiện tượng được biểu thị bằng ngôn ngữ của bản đồ - đó là hệ thống các ký hiệu quy sở toán học của bản đồ, sự tổng quát hóa các yếu tố nội dung và sự thể hiện các đối tượng và hiện tượng bằng các ký hiệu bản đồ - đó chính là ba đặc tính cơ bản phân biệt giữa bản đồ với các hình thức khác biểu thị bề mặt trái Các tính chất cơ bản của bản đồBản đồ có những tính chất cơ bản là tính trực quan, tính đo được và thông Tính trực quan của bản đồ Được biểu hiện ở chỗ là bản đồ cho ta khả năng bao quát và tiếp thu nhanh chóng những yếu tố chủ yếu và quan trọng nhất của nội dung bản đồ. Một trong những tính chất ưu việt của bản đồ là khả năng bao quát, biến cái không nhìn thấy thành cái nhìn thấy được. Bản đồ tạo ra mô hình trực quan của lãnh thổ, nó phản ánh các tri thức về các đối tượng hoặc các hiện tượng được biểu thị. Bằng bản đồ, người sử dụng có thể tìm ra đựơc những quy luật của sự phân bố các đối tượng và hiện tượng trên bề mặt trái Tính đo được Đó là tính chất quan trọng của bản đồ. Tính chất này có liên quan chặt chẽ với cơ sở toán học của nó. Căn cứ vào tỷ lệ và phép chiếu của bản đồ, căn cứ vào các thang bậc của các ký hiệu quy ước, người ta sử dụng bản đồ có khả năng xác định được rất nhiều các trị số khác nhau như toạ độ, biên độ, độ dài, khoảng cách, diện tích, thể tích, góc, phương hướng và nhiều trị số do có tinh chất này mà bản đồ được dùng làm cơ sở để xây dựng các mô hình toán học của các hiện tượng địa lý và để giải quyết nhiều vấn đề khoa học và thực tiễn sản Tính thông tin của bản đồ Đó là khả năng lưu trữ và truyền đạt cho người đọc những tin tức khác nhau về các đối tượng và các hiện Phân loại bản đồĐể tiện lợi trong việc nghiên cứu, sử dụng và bảo quản các bản đồ thì cần thiết phải tiến hành phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại khác nhau. Trong đó, một số cách phân loại sau đây thường được sử dụng và cũng là quan trọng nhất. Phân loại theo các đối tượng thể hiện Các bản đồ được phân thành 2 nhóm Các bản đồ địa lý và các bản đồ thiên văn. - Phân loại theo nội dung Bản đồ được phân thành 2 nhóm đó là Các bản đồ địa lý chung và các bản đồ chuyên mỗi cách phân loại kể trên, tuỳ thuộc vào nhóm các bản đồ cụ thể người ta còn có cách phân loại chi tiết Phân loại theo tỷ lệ Các bản đồ địa lý được chia thành ba loại Tỷ lệ lớn, tỷ lệ trung bình và tỷ lệ nhỏ. - Phân loại theo mục đích sử dụng Cho đến nay, theo mục đích sử dụng chưa có sự phân loại chặt chẽ. Bởi vì đại đa số các bản đồ được sử dụng rộng rãi cho nhiều mục đích rất khác nhau. Song đáng chú ý nhất theo mục đích sử dụng có thể phân ra thành 2 nhóm, đó là Các bản đồ sử dụng cho nhiều mục đích và các bản đồ chuyên được bắt đầu từ việc dựng lưới toạ độ và khi sử dụng bản đồ thì mạng lưới toạ độ chính là cơ sở tiến hành những đo đạc khác nhau trên bản lưới các điểm trắc địa bảo đảm cho việc chuyển từ bề mặt tự nhiên của mặt đất lên bề mặt elipxoit và đảm bảo cho việc xác định vị trí chính xác của các yếu tố địa lý của bản đồ so với mạng lưới toạ độ, mạng lưới trắc địa thường được thể hiện trên các bản đồ địa ra, bố cục bản đồ bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và bố trí lãnh thổ bản đồ trong khung, sự phân mảnh đánh số bản đồ cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản Các yếu tố hỗ trợ bản đồNgoài các yếu tố nội dung và các yếu tố cơ sở toán học thì bản đồ còn có yếu tố hỗ trợ bao gồm bảng chú giải, thước tỷ lệ và các đồ thị. Bảng chú giải là "chìa khoá" để người đọc tìm hiểu và khám phá nội dung bản đồ. Bảng chú giải là bảng ký hiệu có kèm theo lời giải thích ngắn gọn. Thước tỷ lệ và các đồ thị được sử dụng trong quá trình đo đạc trên bản đồ để nhanh chóng xác định được các trị số cần thiết. Các yếu tố hỗ trợ còn thể hiện ở những khoảng trống bên ngoài hoặc trong khung bản đồ bởi các bản đồ phụ, các biểu đồ, đồ thị, các lát cắt, các bảng thống kê, v... nhằm mục đích bổ sung, làm sáng tỏ và làm phong phú thêm về những phương diện nào đó của nội dung bản đồ. Ngoài ra, bố cục bản đồ bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và sự bố trí lãnh thổ bản đồ trong khung, sự phân chia các bản đồ có kích thước lớn thành các mảnh và hệ thống đánh số các mảnh đó cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản Lược sử phát triển của bản đồ họcBản đồ ra đời do nhu cầu của cuộc sống xã hội loài người và bản đồ đã phản ánh thực tế khách quan của thiên nhiên và đời sống xã hội. Chính vì vậy bản đồ là sản phẩm văn hoá quý giá nhất nhì của nền văn minh nhân hiểu lịch sử phát triển của bản đồ học là tìm hiểu quá trình phát triển của các loại bản đồ, của công nghệ và phương pháp thành lập cũng như sự phát triển của tư tưởng và lý luận của khoa học bản đồ. Tìm hiểu lịch sử bản đồ học là giúp ta hiểu đúng nhiệm vụ và vị trí của bản đồ học hiện nay để định hướng tốt hơn, chính xác hơn viễn cảnh phát triển của bộ môn khoa học này trong tương hội phát triển, nhu cầu ngày càng tăng của xã hội luôn là điều kiện làm xuất hiện các bản đồ địa lý mới, làm đa dạng phong phú thêm các dạng, loại bản đồ. Khi xuất hiện các chủ đề mới, kiểu loại mới bản đồ, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới về lý luận, cơ sở khoa học mới cho bản đồ học và nó là điều kiện để hoàn thiện và phát triển các thể loại bản cứu sự phát triển của bản đồ học chúng ta được biết các thành tựu khoa học cùng các tên tuổi của các nhà khoa học đã có nhiều cống hiến cho sự phát triển của bản đồ sử của bản đồ học có thể chia ra bốn thời kỳ gắn liền với lịch sử thế giới. Đó là - Thời kỳ cổ đại - Thời kỳ trung cổ. - Thời kỳ cận đại. - Thời kỳ hiện Bản đồ học thời cổ đạiKhi khai quật các công trình cổ đại, người ta tìm thấy các hình vẽ thô sơ về hệ thống tưới tiêu, sơ đồ thành phố... ở Ấn Độ, Tây Á, Trung Đông, Trung Quốc, Bắc Mỹ... Điều này đã khẳng định con người cổ xưa đã có những tri thức bản đồ đáng góp đáng kể cho sự phát triển bản đồ học thời kỳ này là ở cổ Hy Lạp. Họ đã biết về thiên văn học, toán học, biết hình dạng của trái đất và kích thước của nó. Đặc biệt trên các bản vẽ họ đã dùng hệ thống toạ độ địa lý. Đó là bước tiến quan trọng trong bản đồ phẩm nổi tiếng nhất của thời kỳ cổ đại là 8 tập địa lý học Geographie hyesis của Kôlêmê Ptoléme ở những năm 87-150 nhưng đến tận thế kỷ 15 mới được dịch ra tiếng Latinh và in năm kỳ cổ La Mã, việc sử dụng bản đồ để đáp ứng nhu cầu của thực tế, phục vụ hoạt động quân sự và hành chính nên bản đồ phổ biến là các bản đồ đường sá La Mã ở dạng cuộn thành ống dài gần 7m, rộng khoảng 1/3 m rất thuận tiện cho sử dụng và di chuyển. Những người đo đạc đất đai ở La Mã cổ đại cũng đã biết đo đạc chia đất đai thành làng mạc, đường Sá và quy hoạch ruộng trung tâm khoa học lớn ở thời kỳ cổ đại là Alexanđri ở Bắc Ai Cập với những viện bảo tàng và thư viện cổ là minh chứng cho biết nhà địa lý học lỗi lạc Eratoxfen là người đầu tiên xác định phương pháp đo góc kinh tuyến để xác định kích thước trái đất, ông đã xác định gần đúng chiều dài của kinh tuyến và coi nhiệm vụ của địa lý là phải vẽ hình dạng của Trái kỳ cổ đại, Trung Quốc đã là một trung tâm văn minh của thế giới kể cả lĩnh vực bản đồ các tài liệu của Tây Âu và các sử sách truyền lại thì thường gặp các bản đồ, địa đồ với trình độ thành lập khá cao và chính đáng chú ý ở các bản đồ này là ngoài các hình vẽ phối cảnh thông thường người ta đã biết sử dụng các ký hiệu quy ước, ghi chú cho bản đồ. Nổi bật nhất của Trung Quốc ở thế kỷ thứ III là nhà bản đồ xuất sắc Bùi Tú 223- 271. Người đã thành lập ra tập Atlát gồm 18 bản đồ vùng, trong đó ghi rõ phương pháp biên vẽ bản đồ, chọn tỷ lệ, sử dụng lưới ô vuông để phân bố các đối tượng bản đồ, để xác định độ dài đường cong, định hướng đúng cho các con sông, dãy núi. Ông còn lập ra tấm bản đồ tổng thể Trung Quốc tỷ lệ khoảng 1/ Bản đồ học thời trung cổ Thế kỷ V đến XVIIĐây là thời kỳ đình đốn của bản đồ học do sự thống trị của nhà thờ. Những công trình khoa học của các nhà bác học cổ đã bị phá huỷ bởi nhữngngọn lửa của những người cuồng tín. Những công trình của Eratôxphen, Kôlêmê..v.. cùng chung số phận. Một số nhà bác học cổ như Brunô bị thiêu sống, một số người khác bị cầm tù như Galilê. Tuy vậy, nhiều nhà bác học thời bấy giờ đã không hề run sợ trước những ngọn lửa, những hầm tối. Họ tiếp tục sự nghiệp của mình ngay trong khi giam cầm và ngay trước giàn lửa Bản đồ học thời cận đại nửa cuối thế kỷ XVII và thế kỉ XVIIIChính sự phát triển của các quan hệ sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu đã tạo ra sự phát triển mạnh hơn của bản đồ học. Nhu cầu bản đồ chính xác về một khu vực rộng lớn, thế giới đòi hỏi cần có các phương pháp mới, và các biện pháp thích hợp để xử lý nguồn tư trung tâm hoạt động về lĩnh vực bản đồ đã chuyển về các viện hàn lâm khoa học Pháp Pari 1666, Đức Berlin 1700, Nga Pêtécbua 1724...Vào đầu thế kỉ XVIII, Pháp trở thành nước đi đầu trong đo vẽ địa hình đất nước. Họ đã đo vẽ địa hình trên cơ sở lưới tam giác trắc địa do các thế hệ nhà Cassini thiết 1789 có 182 mảnh bản đồ địa hình Quốc gia của nước Pháp đã được hoàn Anh, trong điều kiện tăng nhanh nhu cầu bản đồ phục vụ cho đi biển buôn bán và tìm kiếm thuộc địa, các loại bản đồ biển, địa lí cũng rất phát triển. Để giúp dễ dàng xác định được kinh tuyến trên biển, năm 1675 người ta đã thiết lập ra đài thiên văn Greenwich ở ngoại ô Luân vào các tư liệu về độ lệch từ tính, thuỷ chiều, gió,... nhà thiên văn học người Anh tên là Edward Halley 1656-1742 đã thành lập các bản đồ địa lí tự nhiên về sức gió 1688, bản đồ độ đẳng từ khuynh 1701.d. Bản đồ học thời hiện đạiTrong thế kỷ XVIII và XIX, bản đồ địa lý dùng cho quân sự đã có nhiều hạn chế, quân đội có nhu cầu lớn về bản đồ địa hình. Các cơ quan quân sự vềXã hội phát triển, nhu cầu sử dụng bản đồ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội tăng lên rất nhanh về số lượng và chất lượng đòi hỏi có các loại bản đồ riêng khác với Bản đồ địa lý chung. Nội dung của bản đồ chuyên đề là đáp ứng yêu cầu cụ thể của một ngành, lĩnh vực nào đó trong xã bản đồ chuyên ngành xuất hiện rất sớm, song cùng với sự phát triển của Bản đồ học thì vào cuối thế kỷ XIX và thế kỷ XX, Bản đồ chuyên đề mới phát triển mạnh, đa dạng phong phú về thể loại, nhiều phương pháp và phương tiện mới để thể hiện nội dung bản đồ đã được áp thuộc vào điều kiện lịch sử và mục tiêu kinh tế, phát triển trong từng thời kỳ của mỗi nước, mỗi quốc gia, người ta thành lập các cơ quan chức năng chuyên môn sâu về Bản đồ học và còn thành lập các cơ sở đào tạo chính quy và các viện nghiên đặc điểm quan trọng của Bản đồ học hiện đại là nhờ các thành tựu của khoa học kỹ thuật chụp ảnh hàng không, ảnh vệ tinh, đo vẽ xử lý ảnh, in ốp xét nhiều màu, công nghệ vật liệu mới, tách màu điện tử, điện tử - tin học,... mà công việc đo vẽ và xây dựng bản đồ nhanh chóng chính xác, có nhiều thể loại mang tính toàn cầu và vượt ra ngoài trái đồ học phát triển và thành công rực rỡ làm cơ sở cho phát triển của các ngành kinh tế - xã hội, làm cho mối liên hệ, quan hệ của các lĩnh vực xã hội chặt chẽ và gần nhau hơn, thúc đẩy xã hội loài người tiến lên không đồ học phát triển tạo ra các công nghệ mới cho sản xuất và sử dụng bản đồ, cho phép các nhà khoa học bản đồ xây dựng một tư duy mới, một cách nhìn nhận mới đối với bản đồ học và các sản phẩm, ứng dụng của Sơ lược lịch sử phát triển Bản đồ học ở Việt NamLịch sử đo vẽ và phát triển Bản đồ học ở nước ta cho đến nay chưa có tài liệu chính nào được công bố. Có một số công trình nghiên cứu có đề cập tới nhưng chưa toàn diện và hệ thống. Do đó, đây chỉ là sơ bản đồ của Ptôlêmê khu vực Đông Dương được vẽ như một bán đảo lớn. Năm 43 sau CN, ở nước ta đã tiến hành dựng cột mốc đồng dọc biên giới và năm 724 đã đo vẽ bản đồ để đắp cao hệ thống đê phòng thủ Đại 1280 đã dùng đơn vị đo là Thước 1 thước = 0. Cho đến thế kỷ XV theo các tư liệu nước ngoài thì trên bản đồ bán đảo Đông Dương chưa được thể hiện hoặc còn sai quá 1650 nhà truyền giáo Alexan Đrốt cho ra bản đồ “Vương quốc An Nam” với các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam tương đối đúng. Bản đồ hàng hải của PeterGur cũng vẽ tương đối đúng bờ biển nước cơ sở lý luận, ở nước ta có nhà bác học Lê Quý Đôn 1726 – 1783 có đề cập đến pho sách “Kho hiểu biết quý giá” 9 tập, đặc biệt là trong 3 tập với các tiêu đề Vũ trụ học, Địa lý học và Bản đồ học. Cho đến nay ta còn giữ được hai bản đồ quý là Bản đồ Hồng Đức và Bản đồ Hà Nội thế kỷ thế kỷ XVIII, các giám mục phương Tây cùng với các sĩ quan Pháp đã nhiều đợt đến lãnh thổ nước ta, thực chất là chuẩn bị điều kiện xâm chiếm nước ta làm thuộc địa. Kết quả các đợt thám sát đó là các bản đồ hàng hải Nam Kỳ in ở Pháp năm 1818. Các năm tiếp theo, các hạm đội của Anh và Pháp liên tiếp đo vẽ bờ biển Đông Dương. Năm 1838 giám mục Tabe đã xuất bản “Bản đồ địa lý đế quốc An Nam”. Đến thời kỳ đó, thực dân Pháp đã chiếm xong miền Nam nước ta 1838.Năm 1872 – 1873, thuyền trưởng Brigen đã xuất bản 20 mảnh bản đồ Nam Kỳ tỷ lệ 125 và tập bản đồ của Fê là kết quả cuộc thám sát từ Sài Gòn theo sông Mê Kông lên đến Trung làm như ở miền Nam, ở miền Bắc, Erốt và Buylê đo 1 đường đáy tam giác ở Đồ Sơn, xác định kinh tuyến tại Hải Phòng, lập lưới tam giác ở Bắc Bộ 1874-1875, Rơnots đo ven biển vịnh Bắc Bộ lên đến Trung Quốc 1879, Caxpari đo bờ biển Trung Bộ từ Phan Rang đến Quảng Bình đã góp phần đáng kể để thực dân Pháp chiếm xong Bắc Kỳ năm 1886. Trước đó 5 năm 1881 bản đồ toàn bộ Đông Dương của Đơ Ranh đã được xuất bản với toàn bộ địa danh đã được Pháp 1954, hoà bình được lập lại, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Miền Nam dưới chế độ nguỵ quyền và bảo hộ của hiện ý đồ chiến lược toàn cầu, dựa vào các kết quả đo vẽ của Pháp, Mỹ đã hoàn thành bản đồ địa hình quân sự 150 trên toàn cõi Đông năm 1964, những bản đồ cũ của Pháp đã được hiệu chỉnh theo ảnh hàng không cho bản đồ cơ bản 150 toàn Việt Nam và năm 1967 cho toàn Đông ra, quân đội Mỹ cũng đã tiến hành đo vẽ các bản đồ 110; 125 ở các thành phố lớn, 125 ở một số vùng riêng lẻ ở khu vực sông Mê Kông. Ở tỷ lệ 125 có loại bản đồ ảnh Pictomap. Đến tháng 6 – 1967 đã có 830 mảnh Pictomap cho lãnh thổ Việt Nam và một phần Bắc Việt Nam và Nam Lào. Vừa kết hợp ảnh chụp vừa vẽ các ký hiệu bản đồ nên loại ảnh này ít chính xác không dùng được cho pháo binh vì chưa giải quyết được sai số ảnh do địa hình lồi lõm gây 1969 Cục bản đồ quân đội Mỹ đã chuyển sang xây dựng loại bản đồ ảnh thẳng đứng Orthopictomap tỷ lệ 125 sử dụng các tấm ảnh đã nắn khử sai số ảnh do địa hình gây nên.Trong số bản đồ quân sự về lãnh thổ Đông Dương, quân đội Mỹ còn xuất bản bản đồ phối hợp tác chiến tỷ lệ 1250 với khoảng cao đến đường đồng mức 100m loại có vờn bóng địa hình dùng cho bộ binh và pháo binh; loại có in thang tầng màu độ cao dùng cho không quân.Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta năm 1946. Ngành bản đồ học chưa kịp chính thức ra đời đã phải cùng với cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến 9năm xây dựng bản đồ địa hình quân sự. Lực lượng sản xuất bản đồ thời kỳ này là phòng Bản đồ Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam nay là Cục bản đồ quân sự.Một bước ngoặt to lớn trong lịch sử ngành trắc địa và bản đồ Việt Nam là sự ra đời của cơ quan đo đạc và bản đồ dân sự. Việc chính thức thành lập Cục đo đạc và bản đồ Phủ thủ tướng nay thuộc Tổng cục địa chính - Bộ tài nguyên Môitrường được thực hiện theo Nghị định TTCP số 444/TTg do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14 – 12 – 1959 và lực lượng cán bộ cùng với cơ sở vật chất chủ yếu ban đầu được tách từ một bộ phận của phòng bản đồ Bộ tổng tham mưu QĐNDVN. Chính vì thế có thể nói phòng bản đồ Bộ tổng tham mưu là tiền thân của ngành Trắc địa và Bản đồ nước Nghị định 444/TTg đã xác lập những nhiệm vụ chính cho Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nướca. Tổ chức việc đo đạc trong toàn quốcb. Thống nhất quản lý và chỉ đạo công tác đo đạc trong toàn Xuất bản và quản lý các loại bản Nghiên cứu môn khoa học đo đạc và bản theo đó, ngày 9 – 3 – 1965, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra Nghị định 32/CP về quy định quản lý và sử dụng tư liệu đo đạc và bản đồ; Nghị định 206/TTg ngày 17 – 7 – 1972 xác định Cục đo đạc và bản đồ Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm về công tác đo đạc và bản đồ trong cả nước, có tính công nghiệp và nghiên cứu khoa học. Đó là cơ sở pháp lý để xây dựng và phát triển ngành trắc địa và bản đồ nước ta. Về mặt đào tạo cán bộ chuyên ngành cũng có sự quan tâm, chú ý của Đảng và Chính phủ ta từ 1966 trong trường Mỏ địa chất Hà Nội có khoa Trắc địa và Bản đồ. Một số lượng lớn cán bộ, học sinh đã được gửi sang nước ngoài học tâp và tu nghiệp, năm 1960 thành lập tổ bộ môn bản đồ khoa Địa lý trường ĐHSP Hà Nội, năm 1979 bắt đầu đào tạo chuyên ngành bản đồ khoa Địa lý ĐH Tổng hợp Hà Nội, bộ môn Bản đồ khoa Thuỷ lợi trường Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh.Từ năm 1960 với sự trợ giúp của các chuyên gia các nước XHCN, Cục đo đạc và bản đồ đã bắt đầu xây dựng mạng lưới khống chế mới miền Bắc nước ta. Đến nay đã hoàn thành mạng lưới cấp I và đang hoàn thành mạng lưới cấp II, III, IV trong cả nay, chúng ta đã tự đo vẽ bản đồ tỷ lệ 110; 125 vùng đồng bằng, có nơi 15 bằng phương pháp đo ảnh lập thể, bản đồ 150 cho vùng núi và xuất bản các loại bản đồ khác nhau, các xêri bản đồ và Atlas, phần Ở phương pháp này, nội dung phức tạp khó khăn thì thành lập trên bản gốc biên vẽ, phần đơn giản hơn thì thành lập trên bản gốc thanh vẽ. Phương pháp này cũng rút ngắn được thời gian sản xuất, sử dụng đồng thời các cán bộ, nhân viên có trình độ tay nghề khác nhau. Để thực hiện phương pháp này có 2 phương án - Phương án 1 Các kỹ sư bản đồ thực hiện công việc tổng quát hoá nội dung bản đồ bằng bút chì. Sau đó vẽ theo đó, thực hiện vẽ trên màng khắc, giấy hay điamát. - Phương án 2 Thực hiện phức tạp hơn. Khi đó, từ bản gốc can ghép người ta làm bản copy bản lam. Trên bản này tiến hành thành lập các đối tượng nội dung cần tổng hợp hoá hình ảnh. Một trong những phương án của phương pháp kết hợp là thành lập bản gốc trên copy 2 mặt của nền nhựa trong điamát. Phương pháp này áp dụng khi tỷ lệ bản đồ tài liệu chính bằng hay gần bằng tỷ lệ bản đồ cần lập. Để thực hiện công việc theo phương pháp này, từ các bản gốc can ghép của bản đồ tài liệu chính, người ta tiến hành làm copy 2 màu lên 2 mặt của bản nhựa trong điamát. Trên một mặt là copy màu lam, trên mặt kia là copy màu nâu hoặc đen. Trên diện tích cần chọn lọc đối tượng hay khái quát hình ảnh đối tượng sửa chữa hình ảnh, người ta xoá bỏ hình ảnh trên copy màu đen, còn trên copy màu lam tiến hành vẽ thành lập đối tượng theo tài liệu. Ở những chỗ không có gì thay đổi thì tiến hành vẽ bình thường. Kết quả trên bản gốc này là bản gốc biên vẽ, từ đó làm copy cho bản thanh Các phương pháp thành lập phân loại theo tỷ lệ bản đồ cần lập Theo tỷ lệ thì bản gốc biên vẽ có thể thành lập ở tỷ lệ bản đồ cần lập, hay lớn hơn hoặc nhỏ hơn. - Đa số các trường hợp bản gốc biên vẽ được thành lập ở tỷ lệ bản đồ cần lập vì nó cho chúng ta khái niệm tổng quan về tải trọng bản đồ và lượng các ký hiệu, kích thước ký hiệu cần thể hiện. Đối với bản đồ địa lý chung thì bản đồ tài liệu chính thường có tỷ lệ lớn hơn tỷ lệ bản đồ cần lập. Đối với bản đồ chuyên đề thì sử dụng nền cơ sở địa lý ở tỷ lệ hay gần với tỷ lệ bản đồ cần lập. 215 trang Chia sẻ oanh_nt Lượt xem 1152 Lượt tải 1 Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Bản đồ học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên chuyên ngành đặc biệt cần có những nền cơ sở khác để có thể tính được các đặc trưng của hiện tượng bản đồ và các đặc điểm vùng lãnh thổ. Để xác định một cách tối ưu các yếu tố nội dung bản đồ cần thực hiện phân tích một cách hệ thống các yếu tố nội dung đặc biệt quan trọng theo mục đích, ý nghĩa bản đồ. b. Lựa chọn cách phân loại, các đặc điểm và chỉ số của nội dung bản đồ Về nguyên tắc phân loại nội dung bản đồ được thực hiện theo nguyên tắc từ chung đến riêng, từ khái quát đến chi tiết CÁC YẾU TỐ NỘI DUNG BẢN ĐỒ HỆ THUỶ VĂN ĐỊA HÌNH DÂN CƯ RANH GIỚI HÀNH CHÍNH Sông ngòi Ao hồ Bờ biển Quốc gia Tỉnh Huyện Xã Sông Suối Ao Hồ Ví dụ Sự phân loại các yếu tố nội dung tự nhiên, kinh tế xã hội còn phải tương ứng với nhiệm vụ của khoa học tự nhiên và xã hội. Điều này càng quan trọng hơn đối với các bản đồ chuyên đề, chuyên ngành. Thông thường các đối tượng, yếu tố nội dung được phân loại theo nội dung. Có nghĩa là dựa vào hình dạng, đặc điểm, tính chất, cấu trúc mà người ta nhóm các yếu tố gần giống nhau, có các đặc điểm chung vào một nhóm. Ví dụ Nhóm lớp thuỷ văn gồm các đối tượng như sông tự nhiên 1 nét; sông tự nhiên có nước theo mùa, đường mép nước, đường bờ biển, độ cao mực nước,.... Nhóm lớp địa hình gồm đường bình độ cơ bản, đường bình độ phụ, chấm điểm độ cao, sườn đất dốc đứng, bãi cát phẳng,... Theo ý nghĩa khoa học và thực tế người ta nhóm các yếu tố nội dung theo điều kiện phát sinh, nguồn gốc hoặc quá trình hình thành và phát triển. Yếu tố chính xác định sự lựa chọn nguyên tắc phân loại là mục đích ý nghĩa bản đồ cần lập. Mức độ chi tiết của phân loại phụ thuộc vào mức độ tổng quát hoá bản đồ phụ thuộc vào tỷ lệ bản đồ. Nói chung, tỷ lệ bản đồ có liên quan chặt chẽ với mức độ phân loại hệ thống địa lý. Các bản đồ phân tích đôi khi chỉ thể hiện một vài tính chất, khía cạnh của hiện tượng nội dung bản đồ mà không cần quan tâm đến các mối liên hệ khác, với các đối tượng khác, thí dụ trên bản đồ khí hậu, thời tiết chỉ thể hiện nhiệt độ hoặc lượng mưa. Đặc điểm của bản đồ là các đặc điểm đặc trưng cho nội dung chính của bản đồ. Nó xuất phát và được xác định từ tên gọi của bản đồ. Đồng thời với việc xác định trong kế hoạch biên tập các nội dung bản đồ, người ta thường đặt ra các phương pháp thể hiện nội dung này. Các phương pháp thể hiện nội dung có thể độc lập dùng cho từng loại nội dung nhưng cũng có thể kết hợp nhiều phương pháp để thể hiện các nội dung phức tạp mang cả đặc tính số lượng và chất lượng. Việc lựa chọn phương pháp thể hiện nội dung cần tính đến + Đặc điểm sử dụng bản đồ và các yêu cầu với nó. + Đảm bảo cho bản đồ được thể hiện bằng các thông tin cho trước. + Hài hoà, phù hợp với các nội dung khác của bản đồ và với các bản đồ khác cùng loại. + Đặc điểm phân bố các hiện tượng, đối tượng dầy đặc, rải rác, định vị theo đường, tuyến hay theo điểm,.... + Dung lượng nội dung bản đồ số lượng đối tượng, hiện tượng và các chỉ số của chúng. + Sự phân chia nội dung theo ý nghĩa của chúng chính, phụ theo các chỉ số đặc trưng. + Theo khả năng in ấn bản đồ. Đối với các bản đồ có mục đích sử dụng khác nhau thì việc thiết kế trình bày màu sắc đồng thời có tính đến các đặc điểm sinh học và tâm sinh lý người sử dụng bản đồ. Màu sắc dùng để in bản đồ có nhiều loại, nhiều đặc điểm cho khả năng kết hợp màu tạo ra các nền mầu bản đồ, mở ra khả năng thể hiện nội dung bản đồ bằng các màu sắc khác nhau đặc biệt trên các bản đồ chuyên đề. Khi thiết kế bản đồ chuyên đề, những bản đồ được thành lập lần đầu, bước đầu tiên là soạn thảo nội dung bản đồ - đây là sự trình bày các khái niệm hiểu biết về chuyên đề, đề tài bản đồ. Những khái niệm này được trình bày bởi sự kết hợp của các nhà chuyên môn chuyên ngành và các nhà bản đồ. Trong trường hợp như vậy thường phải làm mẫu phác thảo, makét thử nghiệm, mẫu thiết kế trích mảnh. Khi thiết kế nội dung cho các bản đồ ở các dạng khác nhau bản đồ địa hình, địa lý chung, chuyên đề, chuyên môn thì cũng có các đặc điểm khác nhau riêng biệt. Nội dung và trình bày bản đồ địa hình đã được xác định đầy đủ và chi tiết. Điều này có thể nhận thấy rõ ràng trong quy phạm và hệ thống ký hiệu quy ước cho dùng bản đồ địa hình. Khi thiết kế loại này cần chú ý tới đặc điểm địa lý vùng lãnh thổ và đặc điểm của các tư liệu bản đồ. Khi thiết kế bản đồ địa lý chung cần chú ý đến các yêu cầu Trên các bản đồ này phải thể hiện toàn bộ các yếu tố địa lý và kinh tế xã hội. Nhưng mức độ đầy đủ và chi tiết nội dung của các bản đồ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố mục đích, ý nghĩa, đề tài, tỷ lệ. Để giải quyết nhiệm vụ này người ta đặt ra nguyên tắc chọn lọc và khái quát các đối tượng xem phần tổng quát hoá nội dung bản đồ. Khi thiết kế nội dung bản đồ chuyên đề, chuyên môn, sự xác định mức đầy đủ và chi tiết hình ảnh đối tượng, hiện tượng trên các bản đồ này là một trong những đặc tính, đặc trưng của thiết kế bản đồ chuyên đề. Mức độ đầy đủ và chi tiết nội dung các bản đồ này nhiều hay ít phụ thuộc vào đặc điểm của các đối tượng cần thể hiện, nguồn tư liệu bản đồ, phương pháp thể hiện và hệ thống ký hiệu quy ước. Trên các bản đồ này có đối tượng được thể hiện đầy đủ, chi tiết theo đề tài, nhưng có đối tượng được thể hiện rất mờ nhạt hoặc không thể hiện. Ví dụ khi thiết kế bản đồ hành chính – chính trị, đối tượng chính của nội dung bản đồ là đường vùng lãnh thổ. Sau đó là các đối tượng thuỷ văn, giao thông với những nét chính. Trên bản đồ kinh tế - xã hội loại tra cứu, nội dung chính là các điểm dân cư, giao thông đường sá. Hệ thuỷ văn và địa hình chỉ đóng vai trò nền cảnh quan chung. Địa hình chỉ thể hiện bằng vờn bóng địa hình mà không thể hiện bằng các đường bình độ. Thiết kế bản đồ du lịch thì nội dung chính là các yếu tố, đối tượng về du lịch. Phụ thuộc vào thể loại bản đồ cụ thể mà các giai đoạn thiết kế bản đồ có thể đơn giản hay khó khăn, chi tiết. Hiện nay các bản đồ có thể chia làm 2 nhóm 1- Bản đồ khoa học - kỹ thuật KHKT 2- Bản đồ phổ thông PT. Bản đồ khoa học – kỹ thuật dùng để giải quyết công việc cụ thể trong một lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Đó là các bản đồ địa hình, các bản đồ chuyên đề. Bản đồ phổ thông dùng cho quảng đại quần chúng phục vụ cho mọi đối tượng sử dụng. Các bản đồ này dùng để truyền đạt các thông tin chung nhất về tự nhiên, kinh tế - xã hội. Xu hướng hiện nay, các bản đồ khoa học – kỹ thuật thường được thiết kế và thành lập với sự sử dụng công nghệ thông tin tin học hiện đại để quản lý và khai thác thông tin bản đồ nhanh chóng và chính xác. Đối với loại bản đồ phổ thông thì đòi hỏi về độ chính xác và mức độ đầy đủ, chi tiết kém hơn nhưng nó yêu cầu dễ xem, dễ đọc. Khi xác định nội dung bản đồ cần tính đến các đặc điểm của đối tượng cần thể hiện. Đó là các đặc điểm về cấu trúc đối tượng, tính lôgic không gian, chức năng của đối tượng. Khi thiết kế bản đồ là ta lập ra các mô hình bản đồ, do đó cần lựa chọn, xác định các thông số, đơn vị đo để thể hiện các đặc tính số lượng, chất lượng của đối tượng, hiện tượng bản đồ. Sự lựa chọn này phụ thuộc vào các nhân tố như mục đích bản đồ, đề tài bản đồ, cấu trúc không gian và định vị của đối tượng, nguồn tư liệu dùng để thành lập bản đồ. Đặc tính số lượng thông tin bản đồ có thể thể hiện thông qua chỉ số tuyệt đối hay tương đối. Mục đích thiết kế bản đồ là chọn ra phương pháp thể hiện bản đồ; thiết kế hệ thống ký hiệu quy ước và bảng chú giải bản đồ nhằm thể hiện tốt nhất nội dung bản đồ. c. Chỉ dẫn tổng quát hoá nội dung bản đồ Trong quá trình thành lập bản đồ, sự sáng tạo khoa học của nhà bản đồ được thể hiện rõ ràng, mạnh mẽ trong tổng quát hoá và soạn thảo hệ thống ký hiệu bản đồ. Nhiệm vụ tổng quát hoá bản đồ được thực hiện chủ yếu ở 2 giai đoạn - Ở giai đoạn thiết kế là soạn thảo ra các chỉ dẫn tổng quát hoá nội dung phân loại đối tượng, đặt chỉ tiêu lựa chọn lấy bỏ,...; chỉ dẫn các phương pháp và phương tiện thể hiện. - Ở giai đoạn thành lập là thực hiện các chỉ dẫn đã nêu trong thiết kế kỹ thuật bản đồ để đưa lên bản gốc các nội dung đã được tổng quát hoá. Nói chung trong chỉ dẫn thiết kế kỹ thuật thường bao gồm + Chỉ ra các đối tượng, yếu tố nội dung phải thể hiện đầy đủ khi chuyển vẽ bản đồ từ tư liệu. + Trình bày các nguyên tắc chính chọn lựa, lấy bỏ các yếu tố nội dung còn lại tương ứng với độ lớn, ý nghĩa và mối quan hệ với đặc điểm địa lý lãnh thổ. + Chỉ dẫn các yếu tố, đối tượng đặc biệt cần đưa lên bản đồ. + Đặt ra mức độ chi tiết khi truyền đạt các đối tượng chính cho từng yếu tố nội dung bản đồ. Chỉ dẫn tổng quát hoá, trong từng phần có liên quan đến nhiều chỉ số do đó trong bản thiết kế kỹ thuật bản đồ có thể có nhiều mức độ đầy đủ và chi tiết khác nhau. Theo truyền thống thì đối với bản đồ nội dung phong phú sẽ có nhiều mẫu, cách tổng quát nội dung, do đó việc sáng tạo trong tổng quát hoá phụ thuộc vào trình độ kinh nghiệm của nhà bản đồ. Đôi khi, khi soạn thảo nội dung bản đồ, người thiết kế bản đồ phải thiết kế, makét, mẫu tổng quát hoá cho các yếu tố nội dung theo ý đồ của mình. Các makét này thường phải làm cho 1 vùng đặc trưng cho bản đồ. Trong những trường hợp này người thành lập bản đồ chỉ theo các mẫu này để đưa lên bản gốc các nội dung đã được tổng quát hoá. Khi thành lập bản đồ tự động hoá cần có cơ sở toán học và thể hiện tất cả các mặt trong quá trình tổng quát hoá nội dung bản đồ. Đây là vấn đề rất khó khăn phức tạp của bản đồ học hiện đại. d. Xác định các chỉ số tổng quát hoá Khi phân tích bản đồ một cách hệ thống thông qua các ký hiệu và dấu hiệu của nó người ta có thể giải quyết được một số vấn đề về chỉ số tổng quát hoá - Đặt ra tải trọng đồ hoạ cho bản đồ cần thiết kế giá trị lớn nhất và tối ưu cho tải trọng bản đồ. - Chỉ ra được mật độ của đối tượng trên thực địa và mức độ chọn lọc các đối tượng này cho phù hợp với đặc điểm địa lý lãnh thổ. - Xác định kích thước nhỏ nhất của đối tượng cho các yêu tố nội dung khác nhau của bản đồ. - Xác định mức độ chi tiết có thể cho các đường, đường viền đối tượng và chỉ rõ các giá trị cụ thể. Việc lựa chọn các chỉ số tổng quát hoá còn bao gồm cả việc lựa chọn các thang tầng đặc trưng cho đặc tính chất lượng, số lượng của các yếu tố nội dung bản đồ. Sau khi đã lựa chọn được các định mức, tổng quát hoá, người ta thường phải tiến hành thành lập thử nghiệm trích mảnh của bản đồ. Đặc biệt là đối với các bản đồ mới lập lần đầu và có nội dung phức tạp. Trên bản đồ trích mảnh thử nghiệm, người ta tiến hành kiểm tra mức độ, chất lượng tổng quát hoá và chất lượng trình bày nội dung bản đồ sau tổng quát hoá. Mục đích chính của việc làm trích mảnh thử nghiệm này là soạn thảo ra. Ví dụ, hình mẫu tổng quát hoá cho các vùng đặc trưng trên bản đồ. Từ các hình mẫu, trích mảnh này, các chỉ dẫn chọn lọc, lấy bỏ nội dung bản đồ được xác định và áp dụng cho từng vùng lãnh thổ bản đồ. Trên các bản đồ chuẩn hoá, đã xuất bản nhiều lần thì trích mảnh bản đồ thử nghiệm không nhất thiết phải làm, nhưng các bản đồ gốc mới làm lần đầu, các tác phẩm bản đồ phức tạp, bản đồ tác giả thì bắt buộc phải có. Các công tác chuẩn bị và biên tập bản đồ Khái niệm về biên tập bản đồ Biên tập bản đồ là một trong các dạng công việc chính trong sản xuất bản đồ. Nó được chia làm 2 loại công việc - Công tác chuẩn bị biên tập. - Biên tập trong toàn bộ các giai đoạn sản xuất bản đồ. Công tác chuẩn bị biên tập là giai đoạn đầu tiên của quy trình sản xuất bản đồ. Ở giai đoạn này người ta tiến hành + Thiết kế bản đồ và các công việc khác có liên quan. + Soạn thảo tài liệu biên tập. Công việc chuẩn bị biên tập được tiến hành đồng thời với thiết kế bản đồ và nó bao gồm + Các công việc tổ chức chuẩn bị. + Thu thập, hệ thống hoá và phân tích các tư liệu bản đồ. Kế hoạch biên tập được soạn thảo trên cơ sở các tư liệu thiết kế bản đồ. Nó là tài liệu cơ bản thiết kế bản đồ gồm các tư liệu cho trước và chỉ dẫn thành lập, chuẩn bị in và in bản đồ. Biên tập trong quá trình thành lập, chuẩn bị in và in bản đồ bao trùm toàn bộ các chỉ đạo kỹ thuật, kiểm tra chất lượng trong các giai đoạn sản xuất bản đồ. Biên tập viên bản đồ là người thực hiện các công việc biên tập. Họ là những nhà bản đồ có kinh nghiệm, là nhà lãnh đạo sản xuất bản đồ. Họ lãnh đạo và kiểm tra các giai đoạn sản xuất bản đồ cho phù hợp và tuân thủ theo các quy phạm đã đề ra cho bản đồ. Cùng làm việc với biên tập viên bản đồ còn có biên tập viên kỹ thuật, đặc biệt là biên tập viên kỹ thuật trong giai đoạn chuẩn bị in và in bản đồ. Công tác biên tập được thực hiện theo nguyên tắc tập trung ở trong các nhà máy cũng như trong từng phân xưởng, bộ phận. Như vậy, biên tập bản đồ là quá trình thực hiện các công việc chuẩn bị biên tập, soạn thảo ra các tài liệu biên tập về thành lập, chuẩn bị in và in bản đồ; là chỉ đạo khoa học kỹ thuật toàn bộ các dạng công việc sản xuất bản đồ. Thông qua các tài liệu biên tập, tính sáng tạo của tập thể các chuyên gia bản đồ ở các trình độ khác nhau trên 1 cơ sở thống nhất về tổ chức và kỹ thuật được thể hiện, cũng qua đó đảm bảo sản xuất ra các tác phẩm bản đồ chất lượng cao. Công tác chuẩn bị biên tập 1. Công tác tổ chức chuẩn bị Công tác chuẩn bị về phương diện tổ chức xuyên suốt trong từng công việc của giai đoạn chuẩn bị biên tập bản đồ. Ở giai đoạn đầu tiên, biên tập viên bản đồ soạn thảo các nhiệm vụ kỹ thuật cho thiết kế bản đồ và các nhiệm vụ khác. Công việc chuẩn bị bao gồm xem xét và đánh giá các tư liệu trong sản xuất bản đồ các bản đồ gốc, makét nội dung chuyên đề, các biểu bảng,.... Sự nghiên cứu, xem xét này nhằm đặt ra các điều kiện thuận lợi cho công việc thành lập bản đồ, sự phù hợp với quy phạm và các tài liệu định mức khác. Ngoài ra, để lập ra các tài liệu biên tập cần có sự hợp tác của các cơ quan, các chuyên gia chuyên ngành có liên quan đến đề tài nội dung bản đồ cung cấp các tư liệu,.... 2. Thu thập và hệ thống hoá các tư liệu bản đồ Nhiệm vụ quan trọng của sản xuất bản đồ là cung cấp đầy đủ các tư liệu bản đồ cho các công việc biên tập và thành lập bản đồ. Các dạng công việc ở giai đoạn này gồm + Thu thập, hệ thống hoá, bảo quản và cung cấp tư liệu bản đồ cho sử dụng, sản xuất. + Sắp xếp và giới thiệu các bản đồ, atlas, chuẩn bị các chỉ dẫn, phương pháp tra cứu bản đồ. Các tư liệu bản đồ là Các bản đồ địa hình, bản đồ địa lý chung, ảnh hàng không, ảnh mặt đất, các bản đồ chuyên đề, các tài liệu tham khảo, niêm giám thống kê. Trong số đó có tư liệu được dùng hết, có cái chỉ dùng tra cứu một vấn đề nào đó trong quá trình thành lập bản đồ. Các tư liệu này được kiểm kê, hệ thống hoá và ghi vào tài liệu ở dạng bảng tra danh mục, phiếu tra tìm như trong các thư viện. Tất cả các tư liệu bản đồ có thể chia thành 2 dạng chính + Dạng đồ hoạ. + Dạng văn bản, số liệu biểu bảng. Theo mức độ sử dụng chúng chia ra Các tư liệu chính và các tư liệu bổ sung, hỗ trợ. Cần nhấn mạnh thêm, các tư liệu bản đồ quan trọng và các chỉ dẫn tra cứu mức độ hiện thực của các đối tượng để từ đó quyết định hiệu chỉnh bản đồ hay làm mới. Đó chính là bản đồ trực nhật và các chỉ dẫn tra cứu hỏi đáp. Bản đồ trực nhật phải đảm bảo sự đúng đắn, tính hiện thực nội dung của bản đồ cần thành lập. Ngày nay, người ta ứng dụng các công nghệ tin học để thu nhập, bảo quản, truy nhập, cung cấp các thông tin bản đồ. Các bản đồ có thể thành lập và lưu trữ ở dạng bản đồ số. 3. Soạn thảo các tài liệu biên tập cho sản xuất tác phẩm bản đồ và các dạng tài liệu Soạn thảo tài liệu biên tập bản đồ và thiết kế bản đồ là 2 quá trình tương hỗ liên quan với nhau. Chúng được thực hiện đồng thời trong thứ tự xác định, khi biên tập viên quyết định các vấn đề về cấu trúc bản đồ, nội dung bản đồ, nguyên tắc tổng quát hoá, công nghệ sản xuất bản đồ. Thiết kế bản đồ và các giải pháp kỹ thuật trên bản đồ kết hợp với các nguyên tắc biên tập tạo ra tài liệu biên tập cho sản xuất tờ bản đồ cụ thể. Tài liệu biên tập được chia làm 2 loại + Tài liệu biên tập chung cho các loại bản đồ. + Tài liệu biên tập cho sản xuất tờ bản đồ cụ thể. * Tài liệu chung cho biên tập gồm - Lý thuyết chung cho sản xuất các dạng, loại bản đồ khác nhau; các hướng dẫn cho in bản đồ, các quy phạm, định mức, bảng ký hiệu quy ước, các hướng dẫn tư liệu kỹ thuật. - Các thiết kế biên tập kỹ thuật, đề cương cho các tác phẩm bản đồ lớn Bản đồ nhiều tờ, sêri bản đồ, atlas. Tài liệu biên tập cho tờ bản đồ gọi là kế hoạch biên tập hay hướng dẫn biên tập. Lý thuyết chung, quy phạm, chỉ dẫn biên tập tạo ra hệ thống thống nhất các tài liệu định mức kỹ thuật và điều hành sản xuất thí dụ đối với bản đồ địa hình ta thấy rất rõ. Ngoài ra cho từng cơ sở bản đồ còn có tư liệu hướng dẫn kỹ thuật cho phù hợp với bản thân cơ sở sản xuất. Tư liệu hướng dẫn kỹ thuật này được dùng cho sản xuất các loại bản đồ khác nhau bản đồ du lịch, bản đồ hành chính – chính trị... Tài liệu hướng dẫn quan trọng của tác phẩm bản đồ là thiết kế biên tập - kỹ thuật. Đặc điểm chung của chuẩn bị biên tập và soạn thảo đề cương cho sêri bản đồ, atlas là - Xác định mục đích, ý nghĩa bản đồ. - Các thông số chính và đặc tính kỹ thuật của bản đồ kích thước bản đồ, dung lượng thông tin.... - Các vấn đề chung về sản xuất bản đồ cơ sở toán học, tư liệu biên tập bản đồ, nội dung và cấu trúc bản đồ, các phương pháp thể hiện, nguyên tắc tổng quát hoá, hệ thống ký hiệu quy ước, công nghệ thực hiện công việc và các phụ lục. Biên tập các tác phẩm bản đồ lớn được thực hiện bởi nhóm biên tập, ban biên tập bản đồ. Đứng đầu ban biên tập là chủ biên. Đề cương và bản thiết kế biên tập kỹ thuật được xem xét tại hội đồng biên tập nhà máy. Đối với các tác phẩm bản đồ lớn, ban biên tập có sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành, các giáo sư, các nhà bản đồ có uy tín và kinh nghiệm. * Lý lịch bản đồ là tài liệu sản xuất. Nó được hoàn thành cho chuẩn bị công việc và trong quá trình sản xuất bản đồ ở tất cả các giai đoạn. Lý lịch bản đồ có thể cho biết các chỉ dẫn biên tập kỹ thuật về thành lập tờ bản đồ mới hoàn thành. Trong đó cần thể hiện các khái niệm cụ thể về các tư liệu bản đồ, các phương pháp và mức độ thể hiện chúng, đặc điểm hoàn thành các loại công việc. Ghi chép tất cả các tư liệu, nguyên liệu dùng để thành lập bản đồ, các bước thử nét và thử màu bản đồ. Lý lịch bản đồ ghi chép cụ thể người thực hiện công việc, người kiểm tra, người biên tập, ngày tháng thực hiện và hoàn thành công việc. * Sơ đồ biên tập được thành lập trong trường hợp vùng lãnh thổ bản đồ thể hiện và bản đồ cần thành lập không có các đặc điểm tính chất chung. Biên tập viên thành lập sơ đồ trên giấy vẽ 60x90 cm. Nội dung của nó gồm các khái niệm về đặc điểm vùng lãnh thổ, các chỉ dẫn thành lập các yếu tố nội dung và các phụ lục. Tài liệu biên tập được soạn thảo không những cho các bản đồ mới làm mà cả với các bản đồ tái bản, in lại. Đặc điểm tổ chức công tác biên tập Tổ chức công tác biên tập gắn liền với cấu trúc của các cơ sở sản xuất bản đồ. Ở mỗi xí nghiệp sản xuất bản đồ có những đặc điểm riêng của mình. Nói chung, lãnh đạo biên tập theo nguyên tắc tập trung, phân chia các công việc cho biên tập viên tương ứng với trình độ, nghĩa vụ của họ. Các biên tập viên được chia ra làm 3 loại + Chủ biên. + Biên tập viên chính. + Biên tập viên. Chủ biên – là biên tập viên có trình độ, tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm biên tập nhiều tác phẩm bản đồ lớn. Chủ biên thường chủ trì thiết kế các sêri, atlas bản đồ. Trong các xí nghiệp sản xuất bản đồ, lãnh đạo công tác biên tập là biên tập viên chính Phó giám đốc kỹ thuật, quản đốc phân xưởng thành lập bản đồ, giám đốc trung tâm biên tập bản đồ. Nghĩa vụ của họ là ký duyệt chất lượng các bản đồ của xí nghiệp sản xuất ra. Biên tập viên – là người tham gia biên tập một hay một số bản đồ trong tập bản đồ, hay trong từng công đoạn sản xuất bản đồ. - Để tổ chức tốt, lãnh đạo biên tập cần có kế hoạch rõ ràng. Đề tài, thời hạn hoàn thành công việc được đặt ra trong kế hoạch tháng, quý, năm và dài hơn. Trên cơ sở của kế hoạch này để soạn thảo lịch hoàn thành công việc thành lập tờ bản đồ lựa chọn công nghệ thành lập bản đồ. - Về phương diện lãnh đạo biên tập của chủ biên hay biên tập viên chính gồm có các công việc sau + Chuẩn bị lực lượng biên tập viên tham gia biên tập tác phẩm bản đồ. + Tổ chức làm các chỉ dẫn biên tập, các chỉ dẫn kỹ thuật. + Tổ chức nâng cao trình độ cho biên tập viên. Trong sản xuất bản đồ thực tế cho thấy Các biên tập viên được chuyên môn hoá theo các dạng công tác biên tập. Các biên tập viên được chuyên môn hoá theo vùng lãnh thổ, theo chọn tỷ lệ cho bản đồ, theo dạng bản đồ và đề tài bản đồ. Sự chuyên môn hoá được xác định theo nhiệm vụ của sản xuất. Chỉ dẫn biên tập của xí nghiệp còn là một dạng hướng dẫn khoa học của các biên tập viên, là tổng kết các kinh nghiệm sản xuất của xí nghiệp. - Nhiệm vụ mới và nguyên tắc tổ chức công tác biên tập là soạn thảo thứ tự thiết kế biên tập kỹ thuật các bản đồ và atlas. Các thiết kế này có áp dụng các định mức mới, tiêu chuẩn mới phù hợp với công nghệ và thiết bị hiện đại tiên tiến nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Công tác biên tập bản đồ 1. Công việc chuẩn bị biên tập và soạn thảo các tài liệu biên tập cho sản xuất bản đồ. Biên tập tờ bản đồ cụ thể trong giai đoạn chuẩn bị biên tập bản đồ ngoài thiết kế bao gồm - Làm sáng tỏ, thu thập, phân tích các tư liệu bản đồ. - Nghiên cứu vùng lãnh thổ, đối tượng, hiện tượng bản đồ thể hiện. - Soạn thảo kế hoạch biên tập hướng dẫn biên tập. Mục đích chính của thu thập, phân tích và đánh giá các tư liệu bản đồ và các tư liệu khác là lựa chọn, xác định nguồn tư liệu chính, phụ cần thiết cho chuẩn bị biên tập và thành lập bản đồ. Công việc thu thập tài liệu được thực hiện theo đơn đặt, yêu cầu của biên tập viên. Chúng có thể lấy, tìm ở bộ phận lưu trữ, ở các cơ quan, thư viện khác nhau. Phân tích tư liệu bản đồ được tiến hành theo mục đích, nội dung bản đồ. Khi đánh giá các thông tin, tư liệu bản đồ cần tính đến - Mức độ hiện đại, mới, đầy đủ, chi tiết của nội dung. - Độ chính xác. - Sự tương ứng của bản đồ với thực tế. - Khả năng ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất. - Mục đích khoa học và ý tưởng của bản đồ. Khi phân tích, đánh giá tư liệu bản đồ cần Nghiên cứu kỹ các nguồn tư liệu để nhận được các khái niệm về đối tượng, cách tổng quát hoá đối tượng; cần sử dụng các bản đồ trực nhật để thống kê sự thay đổi của khu vực bản đồ thể hiện. Kết quả thu thập và nghiên cứu nguồn tư liệu được viết ở dạng bảng, biểu, bài viết, sơ đồ sử dụng bản đồ tài liệu, sơ đồ khoanh vùng địa lý, vùng lãnh thổ bản đồ. Nghiên cứu đặc điểm địa lý lãnh thổ và đối tượng theo đề tài bản đồ, theo các chỉ dẫn đã định và khuôn khổ đã xác định. Trong mọi trường hợp đều phải làm sáng tỏ đặc điểm địa lý của lãnh thổ, đặc điểm phân bố và mối liên quan của các đối tượng bản đồ. Dựa vào đặc điểm địa lý vùng cần lập bản đồ, các biên tập viên sẽ lựa chọn các đối tượng cần biểu thị nội dung bản đồ. Người biên tập đặt kế hoạch xử lý các tư liệu dùng để thành lập bản đồ, tiến hành thử mẫu bản đồ có tính đến đặc điểm địa lý vùng, lãnh thổ, soạn thảo các vấn đề cần thiết cho tiến hành công việc thành lập bản đồ như bảng ký hiệu quy ước, sơ đồ bố cục bản đồ. Các tài liệu biên tập là thể hiện toàn bộ các ý tưởng của biên tập viên với bản đồ cần thành lập. Kế hoạch biên tập gồm các phần chính sau 1- Các khái niệm chung về bản đồ, về mục đích và các đặc tính cơ bản của bản đồ. 2- Cơ sở toán học bản đồ, các chỉ dẫn xây dựng nó. 3- Các tư liệu bản đồ, các chỉ dẫn thứ tự và phương pháp sử dụng chúng. 4- Đặc điểm địa lý và các khái niệm về các đối tượng bản đồ. 5- Các yếu tố nội dung bản đồ, các chỉ dẫn thành lập và tổng quát hóa chúng. 6- Công nghệ thành lập, chuẩn bị in và in bản đồ. Đi kèm tài liệu biên tập nhất thiết phải có các phụ lục sơ đồ bố cục, bảng ký hiệu quy ước có thể cần đến mẫu tổng quát hoá đối tượng, trích mảnh mẫu bản đồ. Đối với bản đồ chuyên đề, phụ lục đi kèm sẽ có các đặc tính riêng. Cụ thể trong tài liệu biên tập, mới đầu người ta xác định chính xác đầy đủ tên bản đồ, vùng lãnh thổ vị trí địa lý, tỷ lệ bản đồ, mục đích của bản đồ, số trang, số tờ bản đồ, kích thước bản đồ, phép chiếu bản đồ. Trong một số trường hợp chỉ rõ tên và kích thước bản đồ phụ, sơ đồ bố cục. Những việc này còn chịu ảnh hưởng và liên quan đến các đặc tính kỹ thuật in Kích thước giấy in, tiêu chuẩn cắt xén, ấn xuất bản đồ,.... Phần tiếp theo tiến hành tính toán, xây dựng cơ sở toán học cho bản đồ tính toán để dựng khung, lưới chiếu bản đồ, yếu tố tiếp biên nếu cần thiết, nắn ảnh,.... Trên sơ đồ bố cục, lập theo đúng tỷ lệ bản đồ nếu có thể, chỉ rõ kích thước bản đồ khung trong, khung ngoài, bố trí vị trí tên gọi bản đồ, bảng chú giải, bản đồ phụ, biểu bảng, đồ thị ở đâu, vẽ sơ lược cơ sở địa lý bản đồ. Ở phần “Tư liệu bản đồ” thống kê toàn bộ các tư liệu bản đồ dùng để thành lập bản đồ, các đặc trưng, đặc điểm và mức độ sử dụng chúng. Chỉ rõ tư liệu bả Các file đính kèm theo tài liệu này

giáo trình bản đồ học